



1. Tình hình xuất khẩu
Cơ cấu thị trường xuất khẩu thịt và sản phẩm từ thịt của Việt Nam
(Tỷ trọng % tính theo giá trị)
Quý I/2023 Quý I/2024
Trong quý I/2024, xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2023. Theo thống kê sơ bộ từ số liệu của Tổng cục Hải quan, trong quý I/2024, Việt Nam xuất khẩu được 5,34 nghìn tấn thịt và sản phẩm thịt, trị giá 23,67 triệu USD, giảm 8,3% về lượng và giảm 7,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Thịt và sản phẩm thịt của Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường thuộc khu vực châu Á, trong đó xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông là nhiều nhất, chiếm 47,79% về lượng và chiếm 66,19% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của cả nước, với 2,55 nghìn tấn, trị giá 15,66 triệu USD, giảm 0,5% về lượng và giảm 5,7% về trị giá so với quý I/2023.
Trong quý I/2024, các chủng loại thịt và các sản phẩm từ thịt xuất khẩu chủ yếu gồm: Thịt lợn sữa nguyên con đông lạnh (được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Hồng Kông, Xing-ga-po); Thịt ếch đông lạnh (được xuất khẩu chủ yếu sang Bỉ, Pháp, Hoa Kỳ…); Chân gà đông lạnh (được xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc, Pa-pu-a Niu Ghi-nê, Lào…); Thịt lợn nguyên con đông lạnh (được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Hồng Kông, Ma-lai-xi-a…); Thịt trâu, bò tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh (được xuất khẩu sang thị trường Lào, Căm-pu-chia)… Đáng chú ý, trừ chân gà đông lạnh và thịt lợn nguyên con đông lạnh, xuất khẩu các chủng loại thịt và các sản phẩm từ thịt còn lại đều tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm 2023.
2. Tình hình nhập khẩu
Nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam trong quý I/2024 tăng so với cùng kỳ năm 2023. Theo thống kê sơ bộ từ số liệu của Tổng cục Hải quan, quý I/2024, Việt Nam nhập khẩu trên 171,54 nghìn tấn thịt và sản phẩm từ thịt, trị giá 345,36 triệu USD, tăng 34,4% về lượng và tăng 29,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Quý I/2024, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nga, Hàn Quốc và Ba Lan là 5 thị trường cung cấp thịt và sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam. Trừ Hoa Kỳ, nhập khẩu thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam từ các thị trường này đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, Ấn Độ là thị trường lớn nhất cung cấp thịt và sản phẩm từ thịt cho Việt Nam với 47,49 nghìn tấn, trị giá 148,01 triệu USD, tăng 31,7% về lượng và tăng 45,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Trong quý I/2024, thịt và các sản phẩm từ thịt nhập khẩu chủ yếu là các chủng loại như: Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của gia cầm tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh; Phụ phẩm ăn được sau giết mổ của lợn, trâu, bò sống ướp lạnh hoặc đông lạnh; Thịt trâu tươi đông lạnh; Thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh; Thịt bò tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh… Trong đó, nhập khẩu thịt gia cầm, thịt trâu, thịt bò có xu hướng tăng; trong khi nhập khẩu thịt lợn lại giảm so với cùng kỳ năm 2023. Quý I/2024, Việt Nam nhập khẩu 11,45 nghìn tấn thịt lợn (HS 0203), trị giá 25,98 triệu USD, giảm 12,5% về lượng và giảm 18,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Nhập khẩu thịt lợn liên tục giảm do tiêu thụ thịt lợn trong nước chậm, trong khi sản lượng lợn liên tục phục hồi. Bra-xin là thị trường lớn nhất cung cấp thịt lợn cho Việt Nam với 4,2 nghìn tấn, trị giá 9,53 triệu USD, tăng 7,4% về lượng và tăng 2,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.

KĨ THUẬT CHĂN NUÔI DÊ CÁI SINH SẢN
Kỹ thuật chăn nuôi dê cái sinh sản đòi hỏi sự chú trọng đến các yếu tố như chọn giống, chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý sinh sản. Dưới đây là các bước cơ bản trong kỹ thuật này: Phương pháp, kĩ thuật nuôi dê cái sinh sản các thời kì: đang mang thai, sinh sản và sau sinh.
1. Chọn giống dê cái sinh sản
Chọn dê cái có nguồn gốc rõ ràng, không mắc bệnh truyền nhiễm, thể trạng khỏe mạnh.
- Dê cái giống cần có ngoại hình cân đối, chân cứng cáp, lông mượt mà, bầu vú phát triển tốt, không dị tật.
- Nên chọn dê cái đã từng sinh con, có khả năng chăm sóc con tốt và khả năng sinh sản đều đặn.
2. Chuồng trại
- Nuôi dê sinh sản thường áp dụng phương pháp nuôi nhốt để thuận tiện cho việc quản lý, chăm sóc, hỗ sinh lý đẻ. Chuồng nuôi nhốt dê sinh sản cần đảm bảo thông thoáng, cao từ 0,8 – 1m.
- Có thể xây chuồng bằng tre, gỗ, sàn chuồng làm bằng gỗ xếp kín, có thể lọt được phân nhưng không lọt chân dê. Trong khu vực chuồng nuôi dê, cần chuồng lớn để nhốt chung dê giống và chuồng cá thể để nhốt dê cái giai đoạn sinh đẻ
3. Cách nuôi dê cái thịt đang mang thai ra sao?
- Thường thì dê thịt được nuôi thả, vì nuôi mà đỡ tốn thức ăn mới có lợi. Khi chăn thả ngoài đồng, dê đực cái nuôi chung nên chúng phối giống theo cách tự nhiên, lắm khi người chăn cũng không hay biết, mà dù có hay biết họ cũng mặc cho dê cấn chửa đi ăn chung bầy cho đến ngày đẻ con, chứ không có một chế độ nuôi dưỡng chu đáo nào như đối với dê sữa mang thai cả. Thậm chí có nhiều trường hợp buổi sáng cho dê mẹ theo bầy ra đồng, chiều người chăn bế con nó trở về… do loài dê sinh đẻ rất dễ. Ở ngoài bãi chăn thả, khi đau bụng đẻ, dê mẹ liền âm thầm tách ra khỏi bầy để tìm vào lùm bụi nào gần đó sinh con. Khoảng vài ba giờ sau, mẹ con cứng cáp, dê dẫn con ra nhập bầy trở lại…
4. Cách chăm sóc dê thịt lúc sinh đẻ ra sao?
- Như trên đã nói, trong suốt thời gian mang thai. Dê cái thịt vẫn được nhập bầy đi ăn bình thường như những dê khác, chỉ người chăn phát giác bụng nó to quá, lại đi đứng nặng nề chậm chạp, biết là dê chỉ còn một vài tuần nữa đẻ thì mới cho ở lại chuồng để lo tẩm bổ cho dê mẹ và bào thai trong bụng nó. Những ngày này dê mẹ mới thực sự nghỉ ngơi, mới được ăn uống những thức ăn ngon miệng chứa đựng nhiều chất dinh dưỡng cao. Nó được nuôi trong ngăn chuồng riêng hoặc được cầm cột vào một góc riêng biệt ấp áp và sạch sẽ… Khi dê mẹ chuyển bụng, ta nên túc trực cạnh bên để chăm sóc cho nó, giống như cách chăm lo cho dê sửa đẻ vậy. Đẻ xong dê mẹ được uống nước cám, được ăn no và được sống tại chuồng thêm vài ba tuần cho thật khoẻ mạnh mới cho nhập bầy đi ăn trở lại
5. Cách chăm sóc dê mẹ sau khi đẻ?
- Sau khi việc sinh đẻ hoàn tất, nghĩa là nhau thai cũng đã xong, dê mẹ thường mệt nhoài. Ta nên cho dê mẹ uống nước cám pha muối để nó mau hồi sức. Chủ nuôi nên tranh thủ dùng khăn sạch nhúng nước ấm để lau sạch bầu vú, âm hộ và thân sau nhơ nhớp của dê. Nếu dê đói cứ cho ăn thỏa thích. Sau đó cho dê mẹ nằm trên ổ rơm để nghỉ ngơi, và nên đạt các con nó nằm cạnh bên mẹ, để dê mẹ được yên tâm nằm nghỉ, và dê con cũng được ấm áp nhờ hơi ấm toát ra từ mình dê mẹ. Chỉ cần được nghỉ ngơi sau vài ba giờ, dê mẹ sẽ khoẻ khoắn lại ngay. Nếu dê chăn thả, trong vài ba tuần đầu, phải nhốt dê mẹ lại trong chuồng không cho theo bầy đàn, chỉ khi dê con đã thực sự cứng cáp đủ sức đi theo dê mẹ ra đồng mới cho theo bầy.

KỸ THUẬT CHỌN LỌC VÀ NHÂN GIỐNG DÊ
Hướng dẫn cách chọn lọc và nhân giống dê nhốt chuồng cho hiệu quả kinh tế cao.
1. Chọn dê đực
– Phải chọn những con đực có giống bố mẹ tốt.
– Đực giống phải là những con khỏe nhất trong đàn, không bệnh tật, ngực nở, chân khỏe, gót cao, không có khuyết tật.
– Đực gống phải có những đặc điểm: đầu ngắn, rộng, tai to và dày, dài, cụp xuống, thân hình cân đối, ngực nở, 4 chân chắc khỏe, cứng cáp, 2 dịch hoàn đều đặn và to. Tính hăng cao và giao phối không chọn lọc, khả năng phối giống thụ thai ít nhất đạt 85% trở lên.
2. Chọn dê cái giống
– Đầu rộng hơi dài, trán dô, cổ dài vừa phải, mình nở rộng, ngực sâu dài, lưng phẳng, bụng to vừa phải, hông rộng và hơi nghiêng, da mềm, bộ phận sinh dục nở nang (những con đầu dài, trụi lông tai, xương nhỏ, lồng ngực hẹp thường yếu, hay mắc bệnh và khó nuôi).
– Bốn chân: Dáng đứng ngay ngắn, hông rộng nở, hai chân trước thẳng, hai chân sau thẳng đứng, cứng cáp, khớp gọn và thanh, móng tròn, khít và thẳng. Loại bỏ những con có chân yếu, dị dạng, vòng kiềng.
– Bầu vú: Nở rộng và cân đối, gắn chặt vào phần bụng, gọn ở phía trước. Hai núm vú dài và đưa về phía trước (dài 4 – 6cm), lông bầu vú càng mịn càng tốt, tĩnh mạch vú nhiều, nổi rõ và có nhiều gấp khúc (Không chọn những con dê cái có vú thịt, núm vú quá ngắn hoặc quá nhỏ vểnh sang hai bên).
Trong quá trình cho giao phối, có thể áp dụng hai phương pháp sau:
* Các phương pháp ghép đôi giao phối
Dựa theo nguyên tắc sau đây:
– Bố tốt ghép đôi với mẹ tốt sẽ cho ra con tốt.
– Chọn những dê đực tốt cho lai tạo với những dê cái tốt của địa phương để cải tạo chất lượng phẩm giống.
– Phương pháp ghép đôi nhân giống ở dê:
+ Nhân giống thuần chủng:
Tiến hành ghép đôi những con đực tốt với những con cái năng suất cao trong cùng một giống. Khi nhân giống thuần chủng nhất thiết phải sử dụng những đực giống phối với những con cái giống khác bố mẹ và ông bà để tránh đồng huyết.
+ Lai tạo:
Đó là qua trình sử dụng những con đực của giống này phối với những con cái của giống khác tạo ra con lai các thế hệ khác nhau
* Quản lý giống trong chăn nuôi dê:
Để quản lý con giống thì cần phải thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
– Thực hiện tốt và chặt chẽ việc chọn lọc đàn giống (bao gồm cả đực giống và cái sinh sản), tăng cường sử dụng những giống, những cá thể có thành tích cao, nhằm thu được đời con có số lượng nhiều, chất lượng tốt.
– Tổ chức tốt công tác theo dõi phát hiện động dục và phối giống cho đàn dê cái theo đúng kế hoạch, đúng mục tiêu sản xuất: nhân thuần, lai tạo hướng sữa, lai tạo hướng thịt.
– Phải có sổ sách ghi chép theo dõi chặt chẽ các con giống, lịch phối giống, sinh đẻ …
– Định kỳ 2 – 3 năm trao đổi đực giống giữa các đàn nhằm tránh hiện tượng nhảy phối đồng huyết, cận huyết.
– Có kế hoạch kiểm tra đánh giá định kỳ gia súc giống để có kế hoạch loại thải, bổ sung kịp thời.
– Thực hiện tốt kỹ thuật phối giống cho đàn dê sinh sản. Những dê cái hậu bị có ngoại hình – thể chất đạt yêu cầu và các dê cái sau khi đẻ, cần được theo dõi sát sao các biểu hiện động dục để phối giống kịp thời. Việc phối giống phải thực hiện trong vòng 24 giờ sau khi dê động hớn với 2 lần cách nhau 12 giờ, chậm nhất không phối sau 36 giờ kể từ khi dê động dục.
– Lúc phối giống cần ghi rõ ngày phối và số hiệu con đực đã giao phối với con cái đó. Sau khi phối giống, dê cái được tiếp tục theo dõi kết quả phối giống sau một chu kỳ, nếu không đạt cần tổ chức phối giống lại lần sau và tiếp tục theo dõi.
– Tránh hiện tượng cho dê đực non giao phối với dê cái già, dê đực già với dê cái non.
* Kỹ thuật chăm sóc, quản lý
+ Dê đực giống nuôi tách riêng khu dê cái để tạo tính hăng cho dê.
+ Cho dê đực vận động 2 lần/tuần, tắm chải khô cho dê hàng ngày.
+ Phải có sổ và phiếu theo dõi kết quả phối giống cho từng con, một dê đực giống giao phối không quá 3 lần/ngày. Khi cho phối giống 10 con cái mà chửa thấp hơn 6 con và tuổi quá 6 năm thì nên loại thải chúng. Tránh không cho dê đực giao phối đồng huyết với dê cái hoặc đực non giao phối với dê cái già.

CÁCH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG DÊ TỪ SƠ SINH ĐẾN CAI SỮA
1. Giai đoạn bú sữa đầu (từ sơ sinh đến 7 ngày tuổi):
- Sau khi dê đẻ ra, dùng khăn sạch, khô, mềm lau toàn bộ cơ thể dê con, tiến hành cắt rốn cho dê bằng cách dùng tay trái cầm cuốn rốn, kẹp rốn giữa ngón cái và ngón trỏ của tay phải, đồng thời vuốt nhẹ theo hướng ra ngoài, dùng dây chỉ chắc thắt chặt cuống rốn cách bụng khoảng 4- 5cm, sau đó dùng kéo cắt cuống rốn phía ngoài cách nút chỉ 1,0- 1,5 cm và sát trùng vết cắt bằng cồn iốt 5% hoặc dung dịch oxy già.
- Để dê sinh trưởng và phát triển tốt, giai đoạn nuôi dê từ sơ sinh đến cai sữa được đánh giá là một trong những bước đệm đầu quan trọng.
- Sau khi đẻ 20- 30 phút cho dê con bú sữa đầu, không được để chậm hơn. Có thể cho bú trực tiếp hoặc bú bằng bình, mỗi ngày 3- 4 lần. Bố trí ổ lót bằng rơm rạ mềm, khô cho dê con nằm. Nếu trời lạnh cần sưởi ấm cho dê con. Nếu dê con yếu, cần vắt sữa ra bình cho dê bú. Nếu dê mẹ không cho con bú, phải ép cho bú bằng cách giữ chặt dê mẹ, vắt bỏ những tia sữa đầu rồi vắt sữa vào miệng dê con. Làm mấy lần cho đến khi dê mẹ quen và cho con bú
2. Giai đoạn bú sữa thường (từ 7 ngày tuổi đến cai sữa):
- Giai đoạn này có thể kéo dài 3 tháng hoặc hơn, tùy theo hướng sản xuất. Nếu nuôi dê để khai thác sữa, nên cai sữa lúc 3 tháng tuổi. Ở những dê mẹ năng suất sữa thấp và nuôi lấy thịt, có thể cho dê con bú đến tháng thứ tư hoặc thứ năm. Có thể cho dê con bú trực tiếp, bú bình hoặc vắt sữa ra chậu cho dê con ăn, mỗi ngày 2- 3 lần. Sữa vắt ra cho ăn ngay. Dụng cụ chứa sữa (bình, chậu) phải sạch sẽ.
- Từ tuần tuổi thứ ba, tập cho dê con ăn các loại thức ăn dễ tiêu, chất lượng tốt: cỏ non phơi tái, cỏ khô sạch, bột cám, bột ngô, bột đậu tương rang. Lượng sữa và thức ăn tinh hàng ngày cần cho một con nên trong khoảng: Dưới 3 tuần tuổi: 400- 600g sữa. Từ 22- 42 ngày tuổi: 500- 600g sữa và 50- 100g thức ăn tinh. Nên nhớ cần cung cấp đầy đủ nước uống sạch sẽ cho dê con, thường xuyên quét dọn chuồng trại, bảo đảm chuồng trại luôn khô ráo, sạch sẽ.
- Mỗi ngày cần bố trí cho dê con vận động 1- 2 giờ trên sân chơi cạnh chuồng họăc trên bãi chăn. Những con còi cọc, cần bổ sung thêm premix khoáng, các vitamin A, D, E, B-complex,bằng việc sử dụng các sản phẩm như: UMBROTOP, PRODUCTIVE FORT liều lượng 1g/2-3 lít nước… Trước khi cai sữa, sử dụng Levamisol hoặc IVERTIN tẩy giun đũa cho dê con.

KỸ THUẬT CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG DÊ
1. Sự lên giống:
– Lên giống là một biểu hiện sinh lý khi dê đạt đến một tuổi nhất định nào đó. Ðây là điều kiện để dê cái bắt đầu sinh sản.
– Dê thường có biểu hiện lên giống ở 6 – 8 tháng tuổi tùy theo giống.
– Các biểu hiện của sự lên giống: phần ngoài của bộ phận sinh dục sưng, chảy nước, đỏ và nóng lên. Ðuôi luôn luôn ve vẩy. Luôn luôn đứng yên khi dê cưỡi lên lưng hoặc con dê khác. Luôn kêu la và giảm lượng ăn. Chu kỳ lên giống của dê bình quân khoảng 21 ngày.
2. Phối giống:
– Thời gian phối giống tốt nhất cho dê là 12 – 18 giờ sau khi xuất hiện những biểu hiện đầu tiên của sự lên giống.
– Ðể tránh sự phối giống không thành công dê đực và dê cái nên nhốt chung trong 1 chuồng nhỏ. Trong hệ thống nuôi chăn thả dê có thể phối giống trong lúc ăn cỏ mà không cần chuồng.
– Phối giống không thành công (no pregnance) nếu dê cái xuất hiện chu kỳ động dục mới khoảng 17 đến 21 ngày sau khi phối giống.
– Không nên phối giống giữa các dê có mối quan hệ gần nhau.
– Nên thay đổi dê đực khoảng 1 năm sử dụng.
– Nên nuôi thịt những dê cái sau hai lần phối giống không đậu.
– Dê cái có thể lên giống lại sau 35- 45 ngày sau khi đẻ chúng ta có thể phối giống cho dê nếu thấy rằng thể trạng của dê tốt. Nếu dê cái sau khi đẻ có thể trạng không tốt như đẻ sinh đôi, sinh ba thì chúng ta có thể đợi thời gian lâu hơn tốt nhất là khi cai sữa dê con thì cho phối giống lại cho dê mẹ. Ðối với đẻ 1 con thì việc phối giống thường đạt kết quả trước cai sữa dê con.
3. Sự mang thai:
– Không có dấu hiệu lên giống sau 17 đến 21 ngày phối giống.
– Bụng có chiều hướng to lên.
– Vú của dê lớn nhất là vào cuối giai đoạn mang thai.
– Chuẩn bị chuồng cho dê chửa bằng ngăn chuồng để dê không bị quậy phá bởi các dê khác, thức ăn không bị các dê khác ăn, dê được yên tỉnh hơn để chuẩn bị đẻ. Việc duy trì sức khỏe tốt cho dê trong giai đoạn chữa là một việc làm cần thiết:
– Luôn luôn giữ cho chuồng khô ráo và sạch sẽ cũng như các vùng dưới sàn chuồng.
– Phải giữ cho chuồng luôn chắc chắn để dê không bị các gia súc khác tấn công cũng như bị trượt ngã do chuồng không được chắc chắn. Các dê cái có thể tăng lên 5 kg hoặc hơn trong suốt giai đoạn chữa vì thế cần cung cấp đầy đủ thức ăn có chất lượng tốt. Ðặc biệt là giai đoạn 2 tháng của thời kỳ chửa và hai tháng sau khi đẻ, thức ăn trong giai đoạn này cần:
– Cỏ tươi phải cung cấp đầy đủ bao gồm cả cây họ đậu.
– Thức ăn hỗn hợp.
– Nước luôn đầy đủ và sạch sẽ.
4. Chuẩn bị cho dê đẻ:
Các biểu hiện trước khi dê đẻ:
– Sụp cơ hông.
– Bầu vú lớn và cứng.
– Luôn luôn cử động như cào dưới sàn chuồng và luôn kêu la.
– Giảm ăn.
– Chuẩn bị chuồng cho dê đẻ:
+ Chuồng phải luôn sạch sẽ.
+ Các dụng cụ thú y.
+ Nên có một lồng úm dê con và lồng úm này có khoảng cách giữa hai thanh là 1,3cm để cho dê con không bị lọt chân.
5. Các vị trí thai của dê con:
– Bình thường
– Không bình thường
6. Các quá trình đẻ của dê:
– Ðầu tiên xuất hiện một bọc nước, bể.
– Dê con sẽ ra ngoài khoảng 1 đến 1,5 giờ sau khi bọc nước bể nếu vị trí thai bình thường, nếu thời giai trên dê con chưa ra thì cần can thiệp.
– Nhau sẽ ra khoảng 4 đến 12 giờ sau khi dê con được sinh ra.
– Sau khi dê con sinh ra cần sát trùng rốn bằng cồn iodine.
– Hãy để cho dê mẹ liếm dê con khô, nếu dê mẹ không liếm có thể dùng vải khô để làm khô dê con.
– Nếu cần thiết nên lau sạch mũi và miệng cho dê con dễ thở hơn.
7. Các trường hợp sinh khó ở dê do:
– Thai dê không ở vị trí bình thường
– Xương chậu của dê mẹ quá nhỏ
– Thai dê quá lớn
– Dê con bị chết trong thời gian chửa
– Dê con quá yếu do dinh dưỡng trong quá trình nuôi kém. Các trường hợp đẻ khó của dê con có thể biết trước được khi 45 phút bọc nước ối vỡ mà dê con sinh ra. Vì vậy, điều cần thiết đối với các dê hậu bị đẻ lúc đầu là cung cấp đầy đủ thức ăn nước uống cũng như cho chúng vận động. Các thao tác can thiệp khi có trường hợp đẻ khó ở dê: Cho dê mẹ nằm xuống và phải thật thận trọng cũng như nhờ 1 người giữ chặt cổ của dê. Rửa sạch tay và phần sau của dê. Ðưa tay vào từ từ đến gần vị trí của thai dê. Lúc này chúng ta cảm thấy có thể nhận biết được các bộ phận của dê như đầu và chân. Khi đó nếu chúng ta cảm thấy đầu và chân sai vị trí thì sửa lại cho ở vị trí bình thường và từ từ kéo dê con ra ngoài.
8. Chăm sóc dê con sơ sinh:
- Dê con có thể bú và đứng dậy 1 giờ sau khi sinh nếu dê con quá yếu thì chúng ta có thể giúp đở cho dê đứng dậy và đến gần vú mẹ, nếu dê con không bú được chúng ta cho sữa vào ống tiêm để cho dê uống. Dê con có thể chết trong vòng 4 giờ nếu không được bú sữa, vì một lý do gì đó dê mẹ chết thì chúng ta có thể cho dê con bú sữa của những con dê khác đẻ cùng ngày hoặc có thể cho dê uống sữa thay thế cho dê con sử dụng. Chuẩn bị sữa thay thế: Thành phần sữa thay thế như sau:
+ 0.25 đến 0,5 lít sữa bò hoặc có thể thay bằng sữa bột.
+1 muỗng cà phê dầu cá.
+ 1 trứng gà.
+ 1/2 muỗng cà phê đường.
- Trộn tất cả thực liệu trên rồi lắc mạnh có thể sử dụng bình uống sữa nếu trong trường hợp khó khăn khi dê con quá yếu chúng ta có thể dùng ống tiêm để bơm trực tiếp cho dê và cho dê uống 3 đến 4 lần trong ngày, sau 2 ngày dê con không tiêu chảy có thể cho dê thêm 1 muỗng cà phê dầu khoáng. Với cách này dê con có thể uống sữa bằng bình bú một cách dễ dàng. Nếu dê con không có mẹ cũng có thể nuôi bằng cách khác như ghép với 1 dê mẹ khác. Ðiều này khi thực hiện có thể gặp một số trở ngại. Bởi vì dê mẹ khác không dễ dàng chấp nhận một dê con mới khác. Sau đây có một vài phương pháp để thực hiện điều trên. Dê mẹ có thể nhận biết dê con khi ngửi và cách tốt nhất để thực hiện điều này là đưa dê con bị mẹ chết vào cho mẹ mới lúc dê này đang sinh. Chúng ta có thể cố định đầu của dê mẹ mới và cho dê con bú cách này thì trong vòng 4 ngày dê mẹ có thể chấp nhận dê con.
9. Chăm sóc dê con trước cai sữa:
Ðối với giống dê Bách thảo của Việt Nam:
– 10 ngày đầu cho dê con ở với mẹ và bú tự do.
– 11 đến 21 ngày chỉ cho dê con bú sữa mẹ ngày 3 lần thường thì vắt sữa xong mới cho bú ngoài ra chúng ta cần cho chúng bú bình thêm 2 lần /ngày với lượng từ 0,4 đến 0,5 lít /ngày.
– 4 đến 5 tuần tuổi chỉ cho bú trực tiếp sữa mẹ 2 lần sau khi vắt sữa và cho bú bình thêm khoảng 0,3 lít / ngày.
– 5 đến 8 tuần tuổi chỉ cho bú trực tiếp với mẹ một lần sau khi vắt sữa và cho bú bình tương đương 0.2 lít /ngày và chuẩn bị cai sữa hoặc trong giai đoạn này có thể sử dụng thức ăn thay thế cho dê con sử dụng (0,2 đến 0,4 kg/con/ngày). Khẩu phần như sau:
+ Bột bắp: 35%
+ Cám gạo: 35%
+ Bánh dầu dừa: 20%
+ Ðậu nành: 10% Ðối với các giống dê ngoại:
– Tuần 1: cho dê con ở chung với dê mẹ và bú tự do.
– Tuần 2: có thể cho dê con bú bình (giới thiệu các kiểu bú bình). Cho 1/2 lít sữa 3 lần trong ngày, lúc này đặt thức ăn và nước uống cũng như cỏ khô để dê con có thể tập ăn
– Tuần 3 đến tuần thứ 6: 2 lít sữa chia làm 3 lần trong ngày và đặt thức ăn và nước uống cũng như cỏ khô để dê con ăn.
– Tuần thứ 7 và 8: Giảm số lượng sữa 2 lần trong ngày.
– Tuần thứ 9 đến tuần thứ 12: Giảm lượng sữa 1 lần trong ngày và cai sữa: Nếu chăm sóc nuôi dưỡng tốt dê con giống ngoại cai sữa 3 tháng đạt 15 kg.
10. Chăm sóc dê vắt sữa:
– Giai đoạn này dê có khả năng thu nhận thức ăn rất cao vì thế chúng ta cần cung cấp đầy đủ số lượng và chất lượng thức ăn cho dê. Mức ăn đối với dê đang cho sữa từ 3 đến 7 kg thức ăn xanh tùy vào trọng lượng cơ thể của chúng.
– Ðối với thức ăn hỗn hợp thì có hàm lượng đạm thô từ 15 đến 17% trong thời gian cho sữa.
– Giai doạn này dễ bị viêm vú cần tránh những sây sát.
– Cần cung cấp đầy đủ nước sạch cho dê.
– Ðối với các giống dê cao sản thì phải cạn sữa 2 tháng trước khi đẻ (giải thích thêm chu kỳ cho sữa).
– Thực hiện cạn sữa có thể bơm kháng sinh vào bầu vú
– Số lần vắt sữa sau khi dê đẻ: tùy thuộc vào sản lượng sữa của từng con cũng như số con đẻ ra:
+ 10 ngày đầu sau khi đẻ: Nếu dê đẻ từ 2 đến 3 con trở lên thì không vắt sữa mà toàn bộ sữa sẽ dành cho dê con bú. Ðến khi cai sữa dê con mới vắt. Nếu dê mẹ chỉ đẻ 1 con thì ngày thứ 4 trở đi có thể vắt 1 đến 2 lần /ngày tùy vào sản lượng sữa của dê mẹ.
+ Từ ngày 11 đến ngày 60 vắt sữa 2 lần /ngày. Ðây là giai đoạn ít sữa nên chỉ vắt 1 lần /ngày.
* Bệnh viêm vú:
- Nguyên nhân: Có thể gây ra do nhiễm trùng tuyến vú:
-Triệu chứng: Vú của dê sẽ nóng đỏ, và khi chúng ta sờ vào dê cảm thấy đau. Sữa dê có thể có màu vàng, xanh hoặc màu đỏ, sữa có vẻ loãng hơn.
- Ðiều trị: Có thể sử dụng kháng sinh tiêm bắp hoặc tiêm trực tiếp vào bầu vú của dê. Trong những trường hợp khẩn cấp có thể vừa tiêm bắp và tiêm vào bầu vú. Dùng thuốc kháng sinh và theo các chỉ dẫn trên toa của thuốc. Trước khi bơm thuốc chắc rằng kim tiêm phải xuyên qua lỗ núm vú dê và đã vắt sữa, khi bơm thuốc phải cẩn thận. Lúc này cần phải vắt sữa ít nhất là 3 lần /ngày. Giảm đau cho dê bằng cách chườm nước nóng khoảng 2 đến 3 lần /ngày. Quy trình điều trị khoảng 3 đến 4 ngày. Ðề phòng bệnh viêm vú: luôn luôn giữ sàn chuồng sạch sẽ ngay cả phía dưới sàn chuồng vì đây có thể là nguồn gây bệnh. Ðối với dê đang vắt sữa cần vệ sinh bầu vú cẩn thận trước khi vắt sữa. Rửa tay bằng xà phòng trước khi vắt. Rửa sạch các vùng chung quanh bầu vú của dê. Sau khi vắt sữa có thể nhúng núm vú dê vào các thuốc chống nhiễm trùng. Khi đi mua dê để tránh lầm là dê có bị viêm vú ở chu kỳ trước hay không chúng ta kiểm tra bầu vú thấy cứng thì không nên mua.
11. Chăm sóc dê cái hậu bị:
- Dê giống hậu bị được tuyển chọn sau khi cai sữa đến phối giống theo một số chỉ tiêu nhất định cha mẹ cho năng suất cao. Trong quá trình trên dê không bị bệnh. Có sự tăng trọng cao so với các dê cùng tuổi. Ngoại hình và màu sắc tương ứng với giống mà ta muốn chọn. Trong giai đoạn này cần phải cung cấp thức ăn đầy đủ cho dê. Giai đoạn này dê cần cung cấp 50 đến 80% thức ăn thô xanh còn lại là thức ăn tinh, phụ phẩm nông nghiệp. Cần bổ sung khoáng canxi và phospho. - Tránh cho dê quá mập. Lượng ăn từ 3 đến 7 kg cỏ xanh và 200gam đến 400gam thức ăn hỗn hơp/con/ngày. Cung cấp đầy đủ nước sạch. Cho vận động nếu dê nuôi nhốt hoàn toàn.
12. Chăm sóc nuôi dưỡng dê đực giống:
- Thành công của một trại chăn nuôi dê phụ thuộc rất lớn vào dê đực giống. Những chủ nuôi dê có quy mô nhỏ từ 5 – 6 con cái không cần nuôi dê đực mà có thể thuê mướn dê ở các chủ nuôi trong vùng. Nuôi dê đực với mục đích gây giống cần phải chăm sóc đầy đủ ngay từ đầu mới chọn được những dê đực tốt. Chọn lọc dê đực: năng suất của một cá thể là kết quả của sự tương tác giữa bản chất di truyền và ngoại cảnh mà nó nhận được. Con đực dùng để phối cho nhiều dê cái nên mức độ ảnh hưởng của con đực đến thế hệ sau rất lớn vì tầm quan trọng như vậy cho nên phải chọn lọc dê đực ngay từ đầu. Chọn những con đực từ những bố mẹ xuất sắc, có khả năng tăng trọng nhanh. Bên cạnh những chỉ tiêu trên cần chọn những con đực phải nhanh nhẹn, thanh nhã, phản xạ tính đực mau lẹ. Nên sử dụng dê đực khi nó được 1 năm tuổi.
13. Nuôi dưỡng và phối giống:
- Cần cung cấp cỏ xanh đầy đủ và quanh năm cho dê đực, số lượng cỏ phụ thuộc vào trọng lượng của dê đực, thông thường từ 2 – 5 kg/con/ngày, nếu có điều kiện nên cho dê ăn tự do.
- Bảo đảm lượng nhu cầu về vật chất khô cho dê đực trung bình từ 1,5- 2 kg/con/ngày với trọng lượng dê là 50 kg.
- Cung cấp 300 đến 500 gam thức ăn hỗn hợp trong ngày dê đực có làm việc.
- Cung cấp đầy đủ các loại khoáng và vitamin, dùng đá liếm hoặc ống muối treo ở trong chuồng.
- Những thức ăn giàu chất bột đường nên hạn chế sử dụng trong khẩu phần của dê đực.
- Thông thường 1 dê đực có thể phối trực tiếp cho 20 đến 30 dê cái.
- Không nên cho dê đực đi theo đàn khi chăn thả vì sẽ không quản lý được sự phối giống.
- Nên thay đổi dê đực 1 năm 1 lần để tránh đồng huyết.

GIÁ HEO HƠI NGÀY 10/10/2024 THEO BA VÙNG TRÊN CẢ NƯỚC
1. Miền Bắc:
Giá heo hơi ở miền Bắc hôm nay ghi nhận mức giảm tại nhiều tỉnh. Cụ thể, giá thu mua heo hơi dao động từ 66.000 - 68.000 đồng/kg. Một số địa phương giảm 1.000 đồng/kg so với ngày trước, như:
Lào Cai: 66.000 đồng/kg
Yên Bái: 67.000 đồng/kg
Thái Nguyên: 67.000 đồng/kg
Ninh Bình: 66.000 đồng/kg
Những tỉnh còn lại như Bắc Giang, Hưng Yên và Hải Dương duy trì mức giá ổn định là 68.000 đồng/kg
2. Miền Trung - Tây Nguyên:
Tại khu vực này, giá heo hơi tiếp tục giảm nhẹ, đặc biệt ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Mức thu mua dao động từ 64.000 - 66.000 đồng/kg. Một số tỉnh giảm 1.000 đồng/kg như:
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh: 66.000 đồng/kg
Quảng Bình, Quảng Trị: 65.000 đồng/kg
Thừa Thiên Huế: 64.000 đồng/kg
Các địa phương như Quảng Ngãi, Bình Định và Khánh Hòa giữ giá ổn định trong khoảng 64.000 - 65.000 đồng/kg
3. Miền Nam:
Khu vực miền Nam cũng không ngoại lệ với xu hướng giảm giá. Hiện giá heo hơi ở đây dao động từ 63.000 - 65.000 đồng/kg. Cụ thể:
Bình Dương, Long An: 65.000 đồng/kg (giảm 1.000 đồng/kg)
Bến Tre có mức giá thấp nhất cả nước: 63.000 đồng/kg
Như vậy, trên toàn quốc, giá heo hơi ngày 10/10 tiếp tục giảm nhẹ tại nhiều địa phương, tạo điều kiện cho người chăn nuôi tái đàn và chuẩn bị nguồn cung cho dịp cuối năm

CÁCH NUÔI DÊ CON TỪ 1-3 THÁNG TUỔI
1. Sau khi đẻ đến 10 ngày tuổi:
– Dê con vừa đẻ xong bạn lau khô mình cho nó rồi cắt rốn ngay (cắt cách cuống rốn 3-4cm, vuốt hết máu ra ngoài). Sau đó, bạn lấy dây chỉ buộc cuống rốn cách bụng khoảng 3-4cm rồi cắt phần bên ngoài của cuống rốn, sát trùng chỗ cắt bằng oxy già hay cồn iod 5%.
– Vẫn để dê nằm chung chuồng với mẹ, lót chỗ nằm bằng rơm hoặc cỏ sạch.
– Trong nửa giờ sau khi đẻ, dê con cần được bú sữa đầu vì lúc này sữa mẹ rất tốt, có nhiều chất dinh dưỡng và kháng thể giúp dê con mau lớn, có sức đề kháng chống được tình trạng suy dinh dưỡng và bệnh đường tiêu hoá.
– Nếu dê con quá yếu, không tự bú được thì bạn tập cho nó bú hoặc vắt sữa vào bình rồi cho nó bú 3-4 lần/ngày.
– Nếu dê mẹ không chịu cho bú thì bạn giữ chặt dê mẹ, vắt bỏ tia sữa đầu rồi đưa núm vú vào miệng dê con, tập cho nó bú. Lúc nào nhận thấy dê con đã bú no bạn mới cho nó rời vú mẹ. Tập cho sê bú vài ngày như thế thì dê mẹ sẽ cho con bú trực tiếp. Ngoài ra bạn cần tập cho dê con bú đều hai vú mẹ. Nếu chỉ bú một bên, vú còn lại sẽ cương sữa làm dê mẹ đau, không chịu cho con bú nữa.
2. Từ 11-45 ngày tuổi:
– Đây là giai đoạn vắt sữa dê mẹ (2lần/ngày, lúc sáng và chiều tối đối với dê mẹ có năng suất sữa trên 1lít/ngày). Sau khi vắt sữa xong bạn cho dê con bú phần sữa còn lại trong bầu vú của dê mẹ.
– Nếu thấy dê con bú chưa no thì bạn cho nó bú thêm khoảng 300-350 ml sữa (bằng bình, 2-3 lần/ngày).
– Mỗi ngày bạn cho dê con bú khoảng 450-600ml sữa là vừa. Để xác định được lượng sữa dê con đã bú, bạn cân trọng lượng của nó trước và sau khi cho bú.
– Nếu dê mẹ tiết sữa dưới 1lít/ngày, bạn chỉ vắt sữa 1lần/ngày vào buổi sáng và cần tách dê con khỏi mẹ từ 5 giờ chiều hôm trước đến 6 giờ 30 phút sáng hôm sau. Rồi bạn cho dê con theo mẹ suốt thời gian còn lại trong ngày, không cần cho bú thêm bằng bình.
– Từ lúc dê 11 ngày tuổi trở đi, bạn có thể cho nó ăn thêm các loại thức ăn dễ tiêu như các loại cỏ lá non sạch, chuối chín, bột bắp, bột đậu nành rang…
– Lượng thức ăn tăng dần: Từ 28 đến 45 ngày tuổi cho ăn khoảng 30-35 g thức ăn tinh; từ 46-90 ngày tuổi cho ăn 50-100g thức ăn tinh.
3. Từ 46-90 ngày tuổi:
– Ở giai đoạn này bạn chỉ cho dê con bú 2 lần/ngày và giảm lượng sữa cho bú xuống (từ 600ml còn 400ml). Thay vào đó bạn cho dê con ăn dặm thêm thức ăn dinh dưỡng (nên hâm nóng ở 38-40oC).
– Riêng bình sữa, bạn cần khử tiệt trùng trước và sau khi cho bú, lau sạch nền chuồng khi dê con đã bú xong.
– Bạn cần thả dê con đi lại tự do trong sân chơi hoặc chăn thả nơi gần chuồng để tập cho nó vận động.
– Dê con dễ bị cảm lạnh, tiêu chảy, viêm loét miệng, do đó bạn nên giữ ấm cho nó khi trời trở gió (lót ổ rơm sạch, che chắn chuồng và vệ sinh chuồng trại thường xuyên…). Ngoài ra, bạn không nên chăn thả dê con dưới 1 tháng tuổi.
– Nếu thấy dê con gầy yếu, suy dinh dưỡng, bạn cần cho ăn thêm những chất bổ sung dinh dưỡng như vitamin và premix khoáng hoặc nên loại bỏ ngay để tránh lãng phí tiền của và công nuôi mà không đạt kết quả tốt. Sử dụng các sản phẩm như AMILYTE, PRODUCTIVE FORTE liều 1g/2-3 lít nước.

BỆNH LƯỠI XANH Ở LOÀI NHAI LẠI: CƠ CHẾ LÂY TRUYỀN VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA
Bệnh lưỡi xanh có thể gây tử vong cho các loài nhai lại như cừu, bò và dê. Một biến thể mới của căn bệnh này đã lây lan ở Bắc Âu từ cuối năm ngoái, dẫn đến các chiến dịch tiêm chủng ở các quốc gia bị ảnh hưởng như Pháp.
Bệnh lưỡi xanh được chẩn đoán đầu tiên ở Nam Phi trên cừu vào đầu thế kỷ 20. Nó bắt đầu lan truyền ra ngoài lãnh thổ Phi châu khi phát hiện ở đảo Síp năm 1943, mặc dù có khả năng bệnh đã có vào khoảng năm 1924. Kế đó phát hiện bệnh tại Israel (1951), Pakistan (1959), Ấn Độ (1963). Lần đầu tiên bệnh được thấy với triệu chứng đau mồm ở cừu tại bang Texas của Mỹ vào năm 1948, ở California vào năm 1952 đã xác định được nguyên nhân là do bệnh lưỡi xanh. Trong khoảng thời gian 1956 – 1960, virus lưỡi xanh đã gây dịch chủ yếu trên cừu tại Bồ Đào Nha và phía nam Tây Ban Nha gây thiệt hại đến hơn 180 nghìn con. Hơn nửa triệu con cừu đã chết kể từ khi bệnh lây lan qua Địa Trung hải vào Nam Âu vào khoảng năm 2005 và đang lan dần về phía bắc. Bệnh lưỡi xanh ở gia súc xuất hiện lần đầu tiên ở Bắc Âu vào năm 2006 và chỉ trong vòng vài tuần sau đó, dịch bệnh này đã lan ra 2.000 trang trại gia súc ở Hà Lan, Bỉ, Đức, Pháp và Luxemburg.
Tại nước ta, chưa vó báo cáo nào cho thấy bệnh xuất hiện, nhưng với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, trình độ chăn nuôi và quy mô đàn thú nhai lại ngày càng gia tăng thì cần có một nghiên cứu đầy đủ về sự tồn tại của bệnh tại nước ta trong thời gian tới.
1. Bệnh Lưỡi xanh là gì?
Bệnh Lưỡi xanh (LX) là một căn bệnh không truyền nhiễm, có tác nhân là vi rút, ảnh hưởng đến động vật nhai lại gia súc và hoang dã (chủ yếu là cừu và cũng bao gồm cả bò, dê, trâu, linh dương, hươu, nai và lạc đà), lây truyền qua côn trùng, nhất là loài muỗi đốt Culicoides. Vi rút gây ra bệnh lưỡi xanh được xác định là một thành viên của họ Reoviridae. Hai mươi bốn kiểu huyết thanh khác nhau đã được phát hiện và khả năng gây bệnh của mỗi loại này khác nhau đáng kể.
Mức độ nghiêm trọng của bệnh khác nhau tùy theo loài, trong đó nghiêm trọng nhất ở cừu, bao gồm các triệu chứng sụt cân, gián đoạn quá trình phát triển lông và gây chết. Ở những con cừu mẫn cảm, tỷ lệ nhiễm bệnh có thể lên tới 100%. Tỷ lệ tử vong trung bình chỉ từ 2-30% nhưng có thể tăng vọt tới 70%
So với cừu, bò mẫn cảm hơn và mức độ các triệu chứng lâm sàng thay đổi tùy theo chủng vi rút. Hiện nay, chủng vi rút lưỡi xanh đang lưu hành ở Bắc Âu có ý nghĩa đáng kể về dịch tễ học, do gây triệu chứng lâm sàng trên bò.
Ở những quốc gia có bệnh lưỡi xanh lưu hành, tác động chủ yếu là mất đi hoạt động thương mại do các hạn chế và chi phí giám sát, xét nghiệm sức khỏe và tiêm chủng. Bệnh lưỡi xanh là một căn bệnh được xếp vào Bộ luật Sức khỏe Động vật trên cạn của OIE và theo Bộ luật này, các trường hợp nhiễm bệnh phải được báo cáo cho Tổ chức Thú y thế giới.
2. Sự truyền và lây lan bệnh
Côn trùng là chìa khóa để truyền vi rút lưỡi xanh giữa các loài động vật. Các véctơ bị nhiễm vi rút lưỡi xanh sau khi tiêu thụ máu của động vật bị nhiễm bệnh. Nếu không có véctơ, bệnh không thể lây lan từ động vật này sang động vật khác. Sự lây truyền vi rút lưỡi xanh có thể xảy ra quanh năm, nhất là trong mùa mưa. Gia súc bị nhiễm bệnh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc vi rút lưu hành tại một khu vực. Những gia súc này là nguồn vi rút suốt nhiều tuần, trong khi có ít hoặc không có triệu chứng lâm sàng bệnh và thường là vật chủ ưa thích của côn trùng truyền bệnh.
Vi rút đã được tìm thấy trong tinh dịch của những con bò đực và cừu đực bị nhiễm bệnh, có thể lây truyền sang những con bò cái và cừu cái mẫn cảm với mầm bệnh, nhưng đây không được xem là nguyên nhân gây lây lan đáng kể. Vi rút lưỡi xanh cũng có thể được truyền qua nhau đến thai nhi.
Vi rút không lây truyền qua tiếp xúc với động vật, các sản phẩm len hoặc sữa.
3. Rủi ro sức khỏe cộng đồng
Không có rủi ro về vấn đề sức khỏe cộng đồng liên quan đến bệnh lưỡi xanh.
4. Triệu chứng lâm sàng
* Các triệu chứng lâm sàng ở cừu bị nhiễm bệnh có thể không giống nhau và bao gồm:
Sốt;
Xuất huyết và loét mô miệng và mũi;
Chảy nhiều nước dãi, sưng môi, sưng lưỡi và hàm;
Viêm vành (phía trên) móng và đi khập khiễng;
Yếu ớt, suy nhược, sút cân;
Tiêu chảy nhiều, nôn mửa, viêm phổi;
Lưỡi có màu xanh do chứng xanh tím (hiếm gặp);
Cừu cái mang thai có thể bị sảy thai;
Trong quá trình hồi phục của những con cừu có thể gặp tình trạng rụng lông một phần hoặc toàn bộ do gián đoạn phát triển lông.
Các triệu chứng lâm sàng trên con vật phụ thuộc vào chủng vi rút, các loài gia súc nhai lại khác như dê thường không có hoặc có ít triệu chứng lâm sàng.
5. Chẩn đoán
Trường hợp nghi ngờ là bệnh lưỡi xanh, dựa trên các dữ kiện cần thiết như triệu chứng lâm sàng điển hình, sự phổ biến của các côn trùng trung gian truyền bệnh và đặc biệt là ở những khu vực bệnh lưu hành, để xác nhận chẩn đoán. (Quy định về sức khỏe động vật trên cạn của OIE và Sổ tay xét nghiệm chẩn đoán và vắc xin cho động vật trên cạn của OIE).
6. Phòng ngừa và kiểm soát
Ở những vùng lưu hành, các chương trình giám sát chủ động lấy mẫu động vật trong các đàn trọng điểm để theo dõi sự hiện diện của vi rút. Kết hợp với các chương trình giám sát chủ động để xác định vị trí, phân bố và tỷ lệ lưu hành của côn trùng truyền bệnh trong khu vực, các biện pháp kiểm soát có thể được thực hiện kịp thời như:
+ Xác định, giám sát và truy tìm các loài động vật mẫn cảm và có nguy cơ nhiễm bệnh;
+ Kiểm dịch và/hoặc hạn chế vận chuyển động vật trong thời kỳ hoạt động của côn trùng;
+ Xác định các vùng cụ thể;
+ Tiêm chủng;
+ Dùng các biện pháp kiểm soát côn trùng.
Tiêm vắc xin được xem như biện pháp hiệu quả và thiết thực nhất để giảm thiểu tổn thất liên quan đến bệnh lưỡi xanh, đồng thời làm đứt gãy sự chuyển đổi từ động vật nhiễm bệnh thành vật trung gian truyền bệnh. Cần sử dụng vắc xin được phát triển để bảo vệ chống lại chủng (hoặc các chủng) vi rút cụ thể đang lưu hành ở một khu vực nhất định.
7. Phân bố địa lý
Bệnh lưỡi xanh phân bố trên toàn cầu, đặc biệt ở những khu vực có loài côn trùng truyền bệnh – loài muỗi đốt Culicoides hiện diện, bao gồm châu Phi, châu Á, châu Úc, châu Âu, Bắc Mỹ và một số đảo ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Ở những khu vực có mùa đông không quá khắc nghiệt, cho phép muỗi đốt sống sót, cũng tạo điều kiện cho vi rút tồn tại. Có hơn 1.000 loài Culicoides nhưng chỉ có khoảng 20 loài là vật trung gian truyền vi rút lưỡi xanh còn năng lực gây bệnh. Do đó, sự phân bố địa lý của các loài côn trùng truyền bệnh thường sẽ hạn chế sự phân bố của bệnh.
Cừu sống ở các vùng lưu hành thường có sức đề kháng tự nhiên với bệnh lưỡi xanh. Dịch có thể bùng phát ở một khu vực khi những con cừu mẫn cảm hơn, đặc biệt là các giống cừu châu Âu được đưa vào các khu vực lưu hành, hoặc do sự di chuyển theo gió của muỗi Culicoides bị phơi nhiễm, chúng mang thêm vi rút đến khu vực lưu hành. Sự xuất hiện của bệnh lưỡi xanh thường song song với hoạt động của véctơ tăng đột biến trong thời kỳ nhiệt độ cao và lượng mưa lớn, bệnh cũng giảm dần khi xuất hiện đợt sương giá hoặc thời tiết lạnh khắc nghiệt hơn

7 AXIT AMIN QUAN TRỌNG TRONG DINH DƯỠNG CHO LỢN: CHÌA KHÓA ĐỂ TỐI ƯU HÓA SỨC KHỎE VÀ HIỆU SUẤT TĂNG TRƯỞNG
- Axit amin là thành phần thiết yếu trong dinh dưỡng cho lợn, đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng, phát triển và sức khỏe tổng thể. Với những tiến bộ trong khoa học dinh dưỡng động vật, việc hiểu rõ vai trò cụ thể và bổ sung tối ưu axit amin trong khẩu phần ăn của lợn đã trở nên tinh vi hơn. Bài viết này sẽ khám phá bảy axit amin quan trọng đối với dinh dưỡng của lợn: lysine, methionine, threonine, tryptophan, valine, isoleucine và leucine. Những axit amin này rất cần thiết để duy trì sức khỏe tối ưu, cải thiện hiệu suất tăng trưởng và tăng hiệu quả sử dụng thức ăn cho lợn.
1. LYSINE
- Lysine thường là axit amin giới hạn đầu tiên trong khẩu phần ăn của lợn, có nghĩa là nó có khả năng bị thiếu hụt nhiều nhất so với nhu cầu của lợn. Lysine rất quan trọng cho quá trình tổng hợp protein, phát triển cơ bắp và các chức năng trao đổi chất tổng thể. Thiếu hụt lysine có thể dẫn đến tốc độ tăng trưởng kém và giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Nghiên cứu chỉ ra rằng lysine cần thiết cho việc tích lũy protein cơ thể và tối đa hóa hiệu suất tăng trưởng của lợn.
- Các nghiên cứu đã cho thấy việc bổ sung lysine vào khẩu phần ăn của lợn cải thiện hiệu suất tăng trưởng, chất lượng thân thịt và sử dụng nitơ. Sự bổ sung này giúp cân bằng protein trong khẩu phần ăn, giảm lượng protein tổng thể cần thiết trong khẩu phần ăn trong khi đảm bảo tăng trưởng tối ưu.
- Hậu quả khi thiếu Lysine: Nếu thiếu Lysine, lợn sẽ chậm phát triển, giảm khối lượng cơ bắp và sức đề kháng kém, dễ mắc bệnh.
2. METHIONINE
- Methionine, thường được nhóm với cystine như axit amin sulfur tổng số (TSAA), rất quan trọng cho các quá trình trao đổi chất khác nhau, bao gồm phản ứng methyl hóa và tổng hợp các phân tử quan trọng như glutathione. Methionine đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện trạng thái oxy hóa, chức năng miễn dịch và tổng hợp protein.
Nghiên cứu đã chứng minh lợi ích của việc bổ sung methionine trong việc cải thiện tăng trưởng và sức khỏe của lợn. Methionine cũng là tiền chất của cysteine, một phần của hệ thống phòng thủ chống oxy hóa trong lợn. Đảm bảo mức methionine đủ trong khẩu phần ăn của lợn có thể dẫn đến cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn và tăng trưởng.
- Hậu quả khi thiếu Methionine:Lợn có thể gặp phải các vấn đề về lông xơ rối, da kém mịn màng, và chức năng gan suy giảm.
3. THREONINE
- Threonine cần thiết cho quá trình tổng hợp protein và là thành phần chính của mucin, một glycoprotein bảo vệ niêm mạc ruột. Mức threonine đủ cần thiết để duy trì sức khỏe ruột, tăng cường hấp thu dưỡng chất và hỗ trợ chức năng miễn dịch.
- Các nghiên cứu đã làm nổi bật tầm quan trọng của threonine trong việc giảm ảnh hưởng của căng thẳng khi cai sữa đối với lợn con, do đó cải thiện hình thái ruột và sức khỏe tổng thể. Bổ sung threonine vào khẩu phần ăn của lợn đã được chứng minh là cải thiện tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn.
- Hậu quả khi thiếu Threonine: Lợn có thể gặp các vấn đề về tiêu hóa, chậm lớn, và dễ mắc bệnh do hệ miễn dịch suy giảm.
4. TRYPTOPHAN
- Tryptophan là tiền chất của serotonin, một chất dẫn truyền thần kinh điều chỉnh tâm trạng, cảm giác thèm ăn và vận động ruột. Mức tryptophan đủ cần thiết để duy trì hành vi bình thường và giảm căng thẳng ở lợn, đặc biệt trong quá trình cai sữa và vận chuyển.
- Nghiên cứu cho thấy rằng bổ sung tryptophan có thể cải thiện lượng thức ăn và hiệu suất tăng trưởng ở lợn, đặc biệt trong điều kiện căng thẳng. Đảm bảo đủ mức tryptophan có thể giúp giảm thiểu sự chậm tăng trưởng do căng thẳng.
- Hậu quả khi thiếu Tryptophan: Lợn có thể dễ bị căng thẳng, khó ngủ, từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng và sức khỏe tổng thể.
5. VALINE
- Valine là một axit amin chuỗi nhánh (BCAA) cần thiết cho quá trình trao đổi chất cơ bắp, sửa chữa mô và duy trì cân bằng nitơ. Valine đóng vai trò quan trọng trong cung cấp năng lượng cho cơ bắp trong quá trình tăng trưởng và tập luyện.
- Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng bổ sung valine có thể cải thiện hiệu suất tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn ở lợn, đặc biệt khi mức protein trong khẩu phần ăn được tối ưu hóa. Mức valine đủ cần thiết để hỗ trợ giai đoạn tăng trưởng nhanh ở lợn.
- Hậu quả khi thiếu Valine: Lợn có thể mệt mỏi, yếu đuối và phát triển cơ bắp kém.
6. ISOLEUCINE
- Isoleucine, một BCAA khác, cần thiết cho tổng hợp protein, phát triển cơ bắp và điều chỉnh năng lượng. Nó tham gia vào quá trình hình thành hemoglobin và điều chỉnh đường huyết.
- Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của isoleucine trong việc cải thiện hiệu suất tăng trưởng và hỗ trợ chức năng miễn dịch ở lợn. Bổ sung isoleucine vào khẩu phần ăn của lợn đã được chứng minh là cải thiện tỷ lệ chuyển đổi thức ăn và sức khỏe tổng thể. Đảm bảo đủ mức isoleucine có thể dẫn đến kết quả tăng trưởng tốt hơn.
- Hậu quả khi thiếu Isoleucine: Lợn có thể chậm phát triển, giảm sức đề kháng và gặp các vấn đề về điều hòa năng lượng.
7. LEUCINE
- Leucine, BCAA thứ ba, đóng vai trò quan trọng trong tổng hợp protein cơ bắp, điều chỉnh tăng trưởng và các chức năng trao đổi chất tổng thể. Nó được biết đến với khả năng kích thích con đường mTOR, rất quan trọng cho sự phát triển cơ bắp.
- Các nghiên cứu đã chứng minh rằng bổ sung leucine cải thiện hiệu suất tăng trưởng, khối lượng cơ bắp và sức khỏe tổng thể ở lợn. Leucine cũng tham gia vào việc điều chỉnh insulin và mức đường huyết, góp phần sử dụng dinh dưỡng hiệu quả.
- Hậu quả khi thiếu Leucine: Lợn có thể bị mất cơ, giảm hiệu suất tăng trưởng và dễ bị yếu ớt sau khi vận động mạnh.
KẾT LUẬN
- Axit amin là nền tảng của dinh dưỡng cho lợn, đóng vai trò thiết yếu trong tăng trưởng, phát triển và sức khỏe tổng thể. Lysine, methionine, threonine, tryptophan, valine, isoleucine và leucine là bảy axit amin quan trọng cần được bổ sung đầy đủ trong khẩu phần ăn của lợn để đảm bảo hiệu suất tối ưu. Việc hiểu rõ chức năng cụ thể và lợi ích của những axit amin này có thể giúp xây dựng khẩu phần ăn cân bằng, nâng cao tăng trưởng, cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn và hỗ trợ sức khỏe của lợn.
- Với những tiến bộ trong dinh dưỡng động vật, tầm quan trọng của việc bổ sung axit amin chính xác ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Bằng cách tối ưu hóa việc bổ sung những axit amin quan trọng này, người chăn nuôi lợn có thể đạt được kết quả tăng trưởng tốt hơn, cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn và động vật khỏe mạnh hơn, cuối cùng dẫn đến sản xuất thịt lợn bền vững và có lợi nhuận cao hơn

MỘT CHẤT CHỐNG OXY HOÁ TỰ NHIÊN THAY THẾ CHO VITAMIN E
Polyphenol được lựa chọn cẩn thận có thể đáp ứng nhu cầu chống oxy hóa của động vật, hiện được cung cấp bởi vitamin E cũng như các polyphenol bổ sung hỗ trợ thêm khả năng chống oxy hóa vượt ra ngoài môi trường lipid. Sự hoán đổi chiến lược này cung cấp một chiến lược đa diện hỗ trợ bảo vệ chống lại các gốc tự do và giúp bảo vệ sức khỏe và hiệu suất của động vật.
Giống như nhiều mặt hàng khác, giá vitamin không ổn định và có xu hướng tăng đột biến khi chuỗi cung ứng bị gián đoạn. Sự gia tăng đột biến gần đây về giá vitamin E đã khiến các nhà dinh dưỡng và nhà sản xuất tìm kiếm các nguồn thay thế chất chống oxy hóa mạnh này vốn nổi tiếng với đặc tính chống lão hóa và có lợi cho sức khỏe; đặc biệt là khi hoạt động của vitamin E bị giới hạn trong môi trường lipid của cơ thể.
Trong bối cảnh này, polyphenol tự nhiên nổi lên như một giải pháp đầy hứa hẹn để giải quyết tình trạng căng thẳng oxy hóa ở động vật nhai lại cũng như các loài đơn dạ dày. Khi kết hợp hiệp đồng, polyphenol có thể đóng vai trò thay thế một phần vitamin E trong thức ăn chăn nuôi, đồng thời tăng cường khả năng chống oxy hóa vượt xa khả năng của riêng vitamin E.
1. Các gốc tự do: nguyên nhân gây ra stress oxy hóa
- Các quá trình trao đổi chất tự nhiên tạo ra các gốc tự do, thủ phạm chính gây ra stress oxy hóa. Các phân tử phản ứng này, bao gồm superoxide, hydrogen peroxide và các gốc hydroxyl, được tạo ra trong quá trình sản xuất năng lượng (ATP). Tốc độ tăng trưởng của động vật và tình trạng sức khỏe của chúng ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất các gốc tự do. Điều quan trọng là phải hiểu rằng sự tăng trưởng nhanh chóng, liên quan đến hoạt động trao đổi chất tăng lên, dẫn đến sự gia tăng stress oxy hóa. Tương tự như vậy, các thách thức về sức khỏe kích hoạt hệ thống miễn dịch sản xuất nhiều gốc tự do hơn, làm trầm trọng thêm stress oxy hóa và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của động vật. Việc hiểu được tác động của các thách thức về tăng trưởng và sức khỏe đối với việc sản xuất các gốc tự do rất hữu ích và có thể hướng dẫn các chiến lược hiệu quả để kiểm soát stress oxy hóa.
2. Xem xét hậu quả của stress oxy hóa
- Để hiểu tại sao việc giảm các gốc tự do trong sản xuất chăn nuôi lại quan trọng đến vậy, chúng ta cần xem xét tác hại mà các gốc tự do gây ra cho động vật và cuối cùng là cho doanh nghiệp của người sản xuất. Hậu quả tiêu cực của các gốc tự do có thể tàn phá màng tế bào, protein và DNA, dẫn đến tổn thương mô và ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe của động vật. Việc bổ sung chế độ ăn cho động vật mang lại cơ hội thú vị để bảo vệ động vật khỏi stress oxy hóa.
3. Quản lý stress oxy hóa bằng enzym, chất chống oxy hóa và sửa chữa tổn thương
- Hiểu được hai chiến lược chính để chống lại các gốc tự do và giảm stress oxy hóa có thể giúp tăng cường nỗ lực của người sản xuất trong việc quản lý sức khỏe động vật. Tuyến phòng thủ đầu tiên bao gồm các enzyme chuyển đổi các gốc tự do thành các chất vô hại như nước và oxy. Các enzyme như catalase, superoxide dismutase và glutathione peroxidase, chứa selen, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược này. Tuyến phòng thủ thứ hai được hình thành bởi các chất chống oxy hóa, bao gồm vitamin E và C, axit lipoic và glutathione, giúp trung hòa các gốc tự do, ngăn ngừa chúng gây ra thêm tổn thương.
Chất chống oxy hóa làm giảm các gốc tự do bằng cách cung cấp một nguyên tử hydro. Ví dụ, vitamin E chứa một vòng benzen có gắn một nhóm hydroxyl. Các electron trong vòng benzen có tính di động, cho phép hydro trong nhóm hydroxyl tách ra và trung hòa một gốc tự do. Vitamin E cũng có một đuôi dài ưa béo, cho phép nó hoạt động như một lipid trong quá trình tiêu hóa và cơ thể (Hình 1).
Hình 1. Cấu trúc phân tử của vitamin E
Hình 2. Các polyphenol được chọn có thể hoạt động như một chất thay thế một phần cho Vitamin E.
4. Chống lại tổn thương do gốc tự do – các chất thay thế cho vitamin E
- Chức năng của vitamin E như một chất điều hòa gen quan trọng hơn các đặc tính chống oxy hóa của nó. Không có gì có thể thay thế vitamin E trong khả năng này. Tuy nhiên, các chất chống oxy hóa khác có thể thay thế vitamin E để ngăn ngừa và chống lại tổn thương do gốc tự do nếu chúng hoạt động trong cùng một vùng tế bào và có ái lực tương tự đối với các gốc tự do (Hình 2).
Trên thực tế, các chất chống oxy hóa khác thậm chí có thể hiệu quả hơn vitamin E trong cuộc chiến chống lại các gốc tự do. Luôn phải cân nhắc đến khả dụng sinh học của vitamin vì động vật phải có khả năng tiếp cận và sử dụng vitamin để có được các đặc tính có lợi của nó. Vitamin E tổng hợp được sử dụng trong dinh dưỡng động vật là hỗn hợp của tám đồng phân lập thể, trong đó chỉ có một loại có cấu trúc không gian giống như vitamin E tự nhiên, mang lại khả dụng sinh học tốt. Gan không nhận biết đầy đủ bảy đồng phân lập thể còn lại, chủ yếu được đưa trở lại đường tiêu hóa và bài tiết không sử dụng.
5. Xem xét độ khả dụng sinh học và loài
Khả dụng sinh học của vitamin E ở gia súc rất thay đổi và phụ thuộc vào sự cân bằng giữa lượng hấp thụ, hấp thụ, giữ lại và phân hủy vitamin E. Khả dụng sinh học của vitamin E ở lợn và gia cầm bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố, chẳng hạn như độ tuổi và tình trạng sinh lý của động vật, hàm lượng và thành phần chất béo trong chế độ ăn uống, và sự hiện diện của các chất chống oxy hóa và chất oxy hóa khác. Hơn nữa, thời gian bán hủy của vitamin E ngắn lại khi liều lượng tăng lên, khiến việc đạt được nồng độ trong huyết tương cao hơn ba lần so với mức cơ bản trở nên khó khăn. Để đảm bảo khả năng chống oxy hóa ở mức cao ở động vật, đặc biệt là những động vật đang phát triển nhanh hoặc có vấn đề về sức khỏe, điều quan trọng là phải kết hợp nhiều chất chống oxy hóa có chức năng hiệp đồng và bổ sung cho nhau.
6. Polyphenol trong selko aomix là các chất thay thế mạnh mẽ cho vitamin E
- Polyphenol là một nhóm hóa chất thực vật có đặc tính chống oxy hóa. Cấu trúc cơ bản của các phân tử này bao gồm một nhóm phenol, có liên quan đến vitamin E. Tiềm năng chống oxy hóa của polyphenol đã được công nhận từ lâu và hơn một thế kỷ trước, chúng gần như được phân loại là vitamin do khả năng bảo vệ chống oxy hóa mà chúng cung cấp.
Hình 3. Cấu trúc phân tử của Naringenin
Một số polyphenol có nhiều nhóm hydroxy liên kết với vòng benzen trên một đơn vị trọng lượng hơn vitamin E, mang lại cho chúng hoạt động chống oxy hóa thậm chí còn mạnh hơn (Hình 3).
Tuy nhiên, không phải tất cả polyphenol đều có thể được sử dụng để thay thế trực tiếp tác dụng chống oxy hóa của vitamin E. Cần phải xem xét đến tính khả dụng sinh học, ái lực gốc, sự phân tán mô và quá trình chuyển hóa.
Ở động vật nhai lại, khả dụng sinh học tỷ lệ thuận với ba yếu tố: khả năng nhạy cảm của polyphenol với quá trình lên men trong dạ cỏ; loại sản phẩm lên men được tạo ra; và khả dụng sinh học của polyphenol bỏ qua hoặc các sản phẩm lên men polyphenol. Ví dụ, cam quýt có chứa naringenin, có thể bỏ qua quá trình lên men dạ cỏ và có khả dụng sinh học cao trong ruột non. Ngược lại, proanthocyanidin quá lớn để tiêu hóa trong ruột non và phải được lên men để tạo ra chất chống oxy hóa có thể hấp thụ. Hiệu quả sinh học bị ảnh hưởng bởi cả chất nền và điều kiện lên men.
Polyphenol cho các loài đơn dạ dày phải được lựa chọn theo khả năng tiêu hóa và hấp thụ của ruột. Theo các nghiên cứu, quercetin, axit rosemarinic và resveratrol có tính khả dụng sinh học cao.
Ngược lại, proanthocyanidin từ nho hầu như không tạo ra chất chống oxy hóa hữu ích ở các loài đơn dạ dày. Cùng với khả dụng sinh học thấp của polyphenol nho và proanthocyanidin ở gia cầm, các chất chống oxy hóa này phù hợp hơn để thay thế vitamin C vì chúng là chất chống oxy hóa tan trong nước. Do đó, polyphenol nho nên được coi là chất bổ sung cho vitamin E chứ không phải là chất thay thế cho vitamin E. Điều này là do chỉ có chất chống oxy hóa tan trong chất béo mới có thể ngăn ngừa quá trình oxy hóa lipid.
Có tính đến sinh lý tiêu hóa của động vật đơn dạ dày và động vật nhai lại, Trouw Nutrition đã phát triển hỗn hợp polyphenol hiệp đồng đặc hiệu theo loài có chứa tỷ lệ chất chống oxy hóa tan trong chất béo cao cho danh mục Selko AOmix của mình. Nguyên liệu thực vật được chọn cho động vật nhai lại vì chúng chứa polyphenol bỏ qua dạ cỏ, giữ lại đặc tính chống oxy hóa sau khi đi qua dạ cỏ hoặc polyphenol, được lên men trong dạ cỏ thành chất chống oxy hóa mạnh có sẵn sau dạ cỏ. Mặt khác, đối với các loài đơn dạ dày, chúng tôi đã chọn thực vật giàu polyphenol dễ hấp thụ và phát huy đặc tính chống oxy hóa mà không cần phải thủy phân bằng quá trình lên men (vi khuẩn). Các hợp chất được sản xuất có thể thay thế và/hoặc bổ sung khả năng bảo vệ chống oxy hóa mà hầu hết các loài động vật hiện có được từ vitamin E, tránh được tình trạng lợi nhuận giảm dần của liều lượng vitamin E lớn hơn đồng thời bổ sung khả năng bảo vệ chống oxy hóa từ vitamin E theo cách tiết kiệm chi phí.
MDA = Malondialdehyde
Hình 4. Selko AOmix kết hợp với vitamin E làm giảm mức MDA (dấu hiệu của stress oxy hóa) ở lợn con trong điều kiện stress nhiệt. Nutreco R&D hợp tác với Đại học Gent, 2012.
Hiệu quả của Selko AOmix đã được xác nhận thông qua nhiều nghiên cứu in vivo. Ví dụ, một nghiên cứu trong đó cừu được cho ăn chế độ ăn nhiều dầu hạt lanh không được bảo vệ đã phát hiện ra rằng hỗn hợp polyphenol làm chậm và giảm quá trình peroxy hóa chất béo. Trong các thử nghiệm với gà mái và lợn, những con vật được cho ăn hỗn hợp polyphenol bị căng thẳng nhiệt không cho thấy sự gia tăng căng thẳng oxy hóa, điều này phù hợp với liều lượng vitamin E cao. Kinh nghiệm thực tế đã chỉ ra rằng Selko AOmix có thể thay thế một phần nhu cầu vitamin E một cách an toàn và hiệu quả (Hình 4).
Tóm lại, các polyphenol được lựa chọn cẩn thận, xem xét sự khác biệt về sinh lý tiêu hóa, ái lực gốc và phân bố mô, có thể đáp ứng nhu cầu chống oxy hóa của động vật, hiện được cung cấp bởi vitamin E cũng như các polyphenol bổ sung hỗ trợ thêm khả năng chống oxy hóa vượt ra ngoài môi trường lipid. Sự hoán đổi chiến lược này cung cấp một chiến lược đa diện hỗ trợ bảo vệ chống lại các gốc tự do và giúp bảo vệ sức khỏe và hiệu suất của động vật.

MEN SỐNG CẢI THIỆN SỨC ĐỀ KHÁNG CỦA LỢN ĐỐI VỚI STRESS NHIỆT
Theo một bài báo đăng trên Tạp chí Dinh dưỡng Anh, nấm men sống Saccharomyces cerevisiae boulardii CNCM I-1079 giúp cải thiện khả năng chống chịu stress nhiệt của lợn thông qua cải thiện hành vi ăn uống và quá trình trao đổi chất.
- Một bài báo mới được công bố trên Tạp chí Dinh dưỡng Anh cung cấp thêm thông tin chi tiết về lợi ích của nấm men sống Saccharomyces cerevisiae boulardii CNCM I-1079 đối với hiệu suất của lợn trong điều kiện căng thẳng nhiệt. Nghiên cứu được tiến hành hợp tác với nhóm INRAE gồm Etienne Labussière, David Renaudeau và nghiên cứu sinh tiến sĩ Aira Maye Serviento. Bài báo trình bày chi tiết về thử nghiệm của họ với lợn vỗ béo trong điều kiện căng thẳng nhiệt mô phỏng.
- “Aira Maye Serviento đã cộng tác với chúng tôi trong ba năm qua để thực hiện luận án tiến sĩ của mình, và tôi muốn chúc mừng cô ấy vì sự chăm chỉ và luận án của cô ấy. Công trình của cô ấy đóng góp đáng kể vào sự hiểu biết của chúng tôi về tác động của stress nhiệt đối với lợn và hiểu biết sâu sắc hơn về cơ chế của men vi sinh để giảm thiểu nó”, Mathieu Castex, Giám đốc R&D của Lallemand Animal Nutrition , nhận xét:
- “Lợi ích của LEVUCELL SB đối với khả năng ứng phó với stress nhiệt của lợn đang lớn đã được ghi nhận và các nghiên cứu gần đây hơn chỉ ra tác động tích cực ở cấp độ vi sinh vật. Nghiên cứu hiện tại nhằm mục đích điều tra xem nấm men sống có ảnh hưởng đến hành vi ăn uống và quá trình chuyển hóa năng lượng hay không”, Lallemand Animal Nutrition cho biết trong một tuyên bố.
- Theo tuyên bố của công ty:
• Nghiên cứu đã xác nhận rằng căng thẳng nhiệt làm giảm đáng kể lượng chất khô tiêu thụ và năng lượng tích trữ ở lợn đối chứng.
• Lợn được bổ sung men sống đã thay đổi hành vi ăn uống với khoảng cách giữa các bữa ăn ngắn hơn đáng kể và do đó có tổng lượng thức ăn tiêu thụ cao hơn trong thời gian căng thẳng nhiệt.
• Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng khả năng chống chịu căng thẳng nhiệt được cải thiện là do độ nhạy insulin được cải thiện ở lợn và khả năng mất nhiệt tiềm ẩn sau bữa ăn, cho phép chúng tăng cả lượng thức ăn tiêu thụ (thông qua số lượng bữa ăn nhiều hơn) và hiệu quả năng lượng của chúng. Do đó, quá trình lắng đọng protein đạt đến tiềm năng tối đa cao hơn, nếu không thì sẽ bị hạn chế trong điều kiện nóng.
• Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc áp dụng tần suất cho ăn tăng lên không thể sao chép được những tác động tích cực của việc bổ sung men sống trong thời gian căng thẳng nhiệt. Điều này là do hành vi ăn uống thay đổi không phải là nguyên nhân mà chỉ là hậu quả của quá trình trao đổi chất năng lượng và phản ứng điều hòa nhiệt độ được cải thiện ở lợn được bổ sung.
- Tóm lại, khả năng chịu nhiệt được cải thiện của lợn được bổ sung men sống nằm ở khả năng duy trì sự cân bằng động giữa sản xuất và mất nhiệt trong suốt cả ngày. Men sống S. cerevisiae boulardii CNCM I-1079 vẫn là một công cụ thú vị giúp động vật đối phó với tình trạng căng thẳng nhiệt ngày càng tăng. Có thể sử dụng các sản phẩm như ZYMEPRO, PERFECTZYME liều lượng 1g/2-3 lít nước để bổ sung cho vật nuôi.

ĐẢM BẢO VỆ SINH THỨC ĂN CHO LỢN VÀ AN TOÀN SINH HỌC: PHÒNG NGỪA NHIỄM KHUẨN SALMONELLA, PRRSV, PED VÀ ASF
Trong bức tranh phức tạp của ngành chăn nuôi lợn, nơi các sợi chỉ vệ sinh thức ăn và an toàn sinh học đan xen, rủi ro không thể cao hơn. Bằng cách áp dụng lập trường chủ động và thực hiện các biện pháp nghiêm ngặt để ngăn ngừa ô nhiễm từ các tác nhân gây bệnh nhưSalmonella , PRRSV, PED và ASF, chúng tôi không chỉ bảo vệ sức khỏe và phúc lợi của những người bạn đồng hành là lợn mà còn củng cố nền tảng của một ngành chăn nuôi lợn bền vững và có khả năng phục hồ
Trong mạng lưới chăn nuôi lợn phức tạp, nơi sức khỏe và năng suất của những người bạn lợn của chúng ta là then chốt, sự chú ý đổ dồn vào hai trụ cột quan trọng: vệ sinh thức ăn và an toàn sinh học. Hai người bảo vệ song sinh này không chỉ quyết định sức khỏe của lợn mà còn có ý nghĩa sâu rộng đối với sức khỏe con người và tính bền vững về mặt kinh tế của ngành. Khi chúng ta đi sâu vào lĩnh vực vệ sinh thức ăn và an toàn sinh học cho lợn, điều bắt buộc là phải làm sáng tỏ các biện pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa ô nhiễm từ những thủ phạm khét tiếng nhưSalmonella , PRRSV (Vi-rút gây hội chứng hô hấp và sinh sản ở lợn), PED (Tiêu chảy dịch tễ ở lợn) và ASF (Sốt lợn châu Phi).
1. Vệ sinh thức ăn: nền tảng của sức khỏe lợn
- Vệ sinh thức ăn không chỉ là giữ máng ăn sạch sẽ – mà là một phương pháp toàn diện bao gồm nguồn cung cấp, lưu trữ, xử lý và chế biến thức ăn để đảm bảo độ tinh khiết và tính toàn vẹn về mặt dinh dưỡng. Sau đây là cách chúng ta có thể tăng cường khả năng phòng vệ chống lại sự xâm nhập của các chất gây ô nhiễm:
a. Lựa chọn nguyên liệu nghiêm ngặt:
- Hành trình đến với thức ăn chăn nuôi nguyên chất bắt đầu bằng việc lựa chọn các nguyên liệu chất lượng cao. Các hoạt động tìm nguồn cung ứng thận trọng là điều cần thiết để giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm tại nguồn. Làm việc chặt chẽ với các nhà cung cấp đáng tin cậy tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt và kiểm tra thường xuyên các nguyên liệu đầu vào để tìm các tác nhân gây bệnh tiềm ẩn nhưSalmonellalà điều tối quan trọng.
b. Điều kiện bảo quản tối ưu:
- Sau khi mua, nguyên liệu thức ăn phải được bảo quản trong môi trường ngăn chặn sự phát triển của mầm bệnh. Cơ sở bảo quản sạch sẽ, khô ráo và thông gió tốt giúp ngăn ngừa nấm mốc phát triển và côn trùng xâm nhập, bảo vệ tính toàn vẹn của thức ăn.
c. Thực hành xử lý vệ sinh:
- Từ khâu vận chuyển đến phân phối, mọi bước trong chuỗi cung ứng thức ăn đều có nguy cơ bị nhiễm bẩn. Việc thực hiện các giao thức nghiêm ngặt về vệ sinh thiết bị, vệ sinh cá nhân và phòng ngừa nhiễm chéo là rất quan trọng để duy trì độ tinh khiết của thức ăn.
d. Kỹ thuật chế biến hiệu quả:
- Hành trình từ nguyên liệu thô đến sản phẩm thức ăn cuối cùng đòi hỏi các kỹ thuật chế biến hiệu quả không chỉ tăng khả năng tiêu hóa mà còn tiêu diệt các mầm bệnh ẩn núp. Các phương pháp xử lý nhiệt, chẳng hạn như tạo viên và đùn, đóng vai trò là vũ khí mạnh mẽ chống lại các vi khuẩn đối địch nhưSalmonella, đảm bảo thức ăn an toàn khi tiêu thụ.
2. An toàn sinh học trong trang trại
- An toàn sinh học đóng vai trò như lính canh bảo vệ cổng trại khỏi sự xâm nhập của các loại bệnh tật và mầm bệnh đe dọa sức khỏe của những người bạn lợn của chúng ta. Hãy cùng khám phá cách chúng ta có thể củng cố các biện pháp an toàn sinh học để chống lại mối đe dọa của PRRSV, PED và ASF:
a. Kiểm soát chặt chẽ việc ra vào:
- Tuyến phòng thủ đầu tiên chống lại sự xâm nhập của dịch bệnh là kiểm soát việc ra vào cơ sở trang trại. Các giao thức hạn chế ra vào, kết hợp với các quy trình khử trùng kỹ lưỡng và mặc trang phục an toàn sinh học, giúp ngăn ngừa việc vô tình đưa mầm bệnh vào bởi nhân viên và phương tiện.
b. Kiểm dịch và giám sát:
- Việc đưa động vật mới vào đàn có thể là con dao hai lưỡi, vì nó có khả năng lây truyền bệnh. Việc thực hiện các biện pháp kiểm dịch chặt chẽ cho phép chúng ta kiểm tra kỹ lưỡng các dấu hiệu bệnh tật của vật nuôi mới nhập vào và theo dõi tình trạng sức khỏe của chúng trước khi đưa chúng vào đàn.
c. Vệ sinh và khử trùng:
- Môi trường sạch sẽ không thuận lợi cho mầm bệnh. Vệ sinh và khử trùng thường xuyên các cơ sở, thiết bị và phương tiện giúp ngăn chặn sự lây lan của bệnh tật trong trang trại và giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm chéo.
d. Giám sát và phát hiện sớm:
- Cảnh giác là chìa khóa để phát hiện sớm bệnh. Triển khai các chương trình giám sát để theo dõi sức khỏe của lợn - kết hợp với xét nghiệm chẩn đoán nhanh các bệnh như PRRSV, PED và ASF - giúp người nông dân phát hiện và ngăn chặn các đợt bùng phát trước khi chúng leo thang.
3. Chống lại các mầm bệnh cụ thể: một phương pháp có mục tiêu
- Trong khi các nguyên tắc bao quát về vệ sinh thức ăn chăn nuôi và an toàn sinh học đóng vai trò là biện pháp phòng thủ mạnh mẽ chống lại vô số mối đe dọa, một số mầm bệnh nhất định đòi hỏi các chiến thuật chuyên biệt để ngăn chặn:
a. Phòng ngừaSalmonella:
- Salmonella, một mối đe dọa vi khuẩn phổ biến, đòi hỏi sự chú ý tỉ mỉ đến các biện pháp vệ sinh thức ăn chăn nuôi. Kiểm tra nghiêm ngặt các mẫu thức ăn chăn nuôi, kết hợp với các giao thức vệ sinh nghiêm ngặt và tuân thủ Thực hành sản xuất tốt (GMP), giúp giảm thiểu nguy cơ nhiễm Salmonella .
b. Quản lý PRRSV:
- PRRSV, nổi tiếng vì tác động có hại đến sức khỏe của lợn, đòi hỏi một cách tiếp cận đa diện bao gồm tiêm phòng, các biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt và theo dõi sức khỏe đàn. Ngăn ngừa lây truyền qua thức ăn bị ô nhiễm đòi hỏi các biện pháp vệ sinh thức ăn chặt chẽ và theo dõi cẩn thận các thành phần thức ăn.
c. Phòng ngừa PED:
- PED, một bệnh do virus lây lan cao, nhấn mạnh tầm quan trọng của các biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt và các giao thức vệ sinh thích hợp. Việc thực hiện các quy trình xử lý thức ăn chuyên dụng và đảm bảo tính toàn vẹn của nguồn thức ăn là điều cần thiết để ngăn ngừa các đợt bùng phát PED.
d. Kiểm soát ASF:
- ASF, một kẻ thù vi-rút đáng gờm, yêu cầu các biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt để ngăn chặn sự xâm nhập của nó vào trang trại. Với hậu quả tàn khốc của nó, việc tìm nguồn nguyên liệu thức ăn từ các vùng không có ASF và thực hiện các giao thức kiểm dịch nghiêm ngặt đối với thức ăn nhập khẩu là các biện pháp phòng ngừa quan trọng.
Các thành phần chức năng thức ăn và phụ gia thức ăn có thể giúp ích như thế nào:
- Bất kể chất lượng của quy trình và sự chú ý đến vệ sinh như thế nào, thì ô nhiễm luôn có thể xảy ra do sự phổ biến cao của vi-rút và vi khuẩn trong môi trường. Đây chính là lúc phụ gia thức ăn có thể giúp ích. MCFA (axit béo chuỗi trung bình) đã được chứng minh là có khả năng làm giảm mức độ vi khuẩn và vi-rút có vỏ bọc nhờ khả năng phá vỡ lớp kép phospholipid. Nhờ sức mạnh này, chúng có thể thu hẹp khoảng cách an toàn sinh học trong thức ăn. Để hỗ trợ nông dân trong cuộc chiến chống lại ASF, PED và ASF, Agrimprove đã ra mắt FeedLock, được thiết kế riêng để nhắm vào vi-rút và hỗ trợ vật nuôi ngoài máng ăn.
Kết luận
- Trong bức tranh phức tạp của ngành chăn nuôi lợn, nơi các sợi chỉ vệ sinh thức ăn và an toàn sinh học đan xen, thì rủi ro không thể cao hơn. Bằng cách áp dụng lập trường chủ động và thực hiện các biện pháp nghiêm ngặt để ngăn ngừa ô nhiễm từ các tác nhân gây bệnh nhưSalmonella, PRRSV, PED và ASF, chúng tôi không chỉ bảo vệ sức khỏe và phúc lợi của những người bạn đồng hành là lợn mà còn củng cố nền tảng của một ngành chăn nuôi lợn bền vững và có khả năng phục hồi. Đây là nơi chúng tôi cam kết duy trì các tiêu chuẩn cao nhất về vệ sinh thức ăn và an toàn sinh học để đảm bảo một tương lai tươi sáng hơn, khỏe mạnh hơn cho cả lợn và người nông dân.

BỆNH DO DINH DƯỠNG TRÊN HEO
Kiến thức về nhu cầu dinh dưỡng của lợn và các thành phần đa dạng của chế độ ăn uống khác nhau hiện nay đã làm giảm đáng kể các vấn đề liên quan với dinh dưỡng.
Kiến thức về nhu cầu dinh dưỡng của lợn và các thành phần đa dạng của chế độ ăn uống khác nhau hiện nay đã làm giảm đáng kể các vấn đề liên quan với dinh dưỡng. Tuy nhiên, thiếu hụt trong chế độ ăn uống vẫn có xảy ra và có thể được xem xét từ bốn khía cạnh: năng lượng, protein, vitamin và khoáng chất. Trong đó, hầu hết các vấn đề phát sinh thường do sự thiếu hụt các thành phần dinh dưỡng quan trọng, tuy nhiên cũng có những bệnh xảy ra do sự dư thừa chất dinh dưỡng. Các dấu hiệu lâm sàng của cả hai được thể hiện trong
Bảng 1. Một đặc điểm rõ ràng của việc thiếu hụt vitamin là nghèo tăng trưởng, nhưng tăng trưởng chậm còn có thể do sự kết hợp với nhiều yếu tố khác mà không được trình bày trong bài viết này.
1. Bệnh liên quan đến vitamin và acid amin
Bảng 1: Bệnh liên quan đến vitamin và acid amin
Dưỡng chất
Dấu hiệu thiếu hụt
Dấu hiệu dư thừa
1
Acid amin
Tăng trưởng kém, dễ nhiễm bệnh
Rối loạn tiêu hoá
2
Biotin
Giảm sinh sản, không lên giống, què, hư món
-
3
Choline
Giảm con/lứa, giảm tăng trưởng
-
4
B12 Cyanocobalamin
Giảm tăng trưởng, giảm sinh sản, thiếu máu
-
5
Năng lượng
Giảm sinh sản, giảm cân, giảm tích luỹ mỡ, dễ nhiễm các bệnh: viêm thận- bàng quang, viêm ruột tiêu chảy sau cai sữa, bệnh đường hô hấp, bất triển và bất hoạt vi nhung mao ruột, hội chứng nái gầy
Tích mỡ
6
Mỡ và acid béo
( linoleic)
Khô da trên cả nái và heo con, giảm cân trong kỳ tạo sữa nuôi con, giảm tăng trưởng
Viêm ruột kết, rối loạn tiêu hoá
7
Acid folic
Thiếu máu, giảm số con/lứa, giảm tăng trưởng
-
8
Nicotinamide(Niacin)
Tiêu chảy, viêm da, liệt, giảm tăng trưởng
-
9
B5
Giảm ngon miệng và giảm tăng trọng, tiêu chảy, dáng đi như vịt
-
10
Protein
Giảm tích luỹ nạc, giảm tăng trọng, dễ nhiễm bệnh
Tiêu chảy
11
B6
Giảm phát triển
-
12
B2
Giảm sinh sản, heo con yếu
-
13
Vitamin A
Giảm sinh sản, mất phối hợp, giảm phát triển xương, mờ mắt, dị tật bẩm sinh, heo con sinh ra bị mù
Tang nhu cầu vitamin E, đau khớp, yếu chân, bệnh tim, tang khả năng bị OCD, biến dạng đầu xương
14
B1
Giảm ngon miệng. phát triển kém, chết đột ngột
-
15
Vitamin D3
Gãy xương, què, còi, loãng xương, xưng khớp
Hoá xương các mô mềm
16
Vitamin E
Mất sữa, đổi màu của mỡ, ung nhọt trong bao tử, hư hại cơ, gan và tim, mắc chứng MMA, bệnh phù thũng, chết đột ngột, dễ mắc bệnh nhất là tiêu chảy E.coli, bệnh hô hấp, kiết lỵ
-
17
Vitamin K
Trầm trọng thêm việc nhiễm độc warfarin. Kém đông máu
-
2. Bệnh liên quan đến khoáng chất trên heo
Thiếu hụt khoáng chất thì ngày nay không còn phổ biến, chỉ đôi khi được phát hiện ở những thú có gen tăng trưởng đặc biệt nhanh và thú mẹ không thể đáp ứng đủ nhu cầu sữa bú của thú con. Những biểu hiện thiếu hụt và dư thừa khoáng chất được trình bày trong Bảng 2.
Bệnh liên quan đến khoáng chất trên heo
Khoáng
Dấu hiệu thiếu hụt
Dấu hiệu dư thừa
1
Ca
Mất sữa, dễ gãy xương, thiếu hụt canxi huyết, loãng xương, liệt chân sau trên nái, còi xương
Thay đổi trong việc tạo xương. Nếu thiếu kẽm càng làm trầm trọng them. Giảm sức mạnh của xương
2
Cu
Yếu chân, phân lỏng nếu loại Cu ra khỏi khẩu phần ăn 1 cách đột ngột
Vàng da( liều dung cao đến 200-600g/tấn), xuất huyết và chết
3
I
Bội triển tuyến giáp, giảm sinh sản, heo con sinh ra yếu và không có lông
Hiếm, liều>800mg/kg
4
Fe
Thiếu máu, tang hô hấp, dễ mắc bệnh, chậm tăng trưởng, da trắng bệch do thiếu máu
Gây chết heo con, đặc biệt khi thiếu vitamin E, tiêu cơ khi dùng liều>5000mg/kg
5
Mg
Kém sinh sản, phát triển kém, yếu khớp
Phân lỏng khi dung>0,5% trong khẩu phần
6
Mn
Kém sinh sản, có thể què, phát triển kém, heo con yếu
Mất tính them ăn khi dung >2000ppm
7
P
Tăng trưởng kém, còi, loãng xương
Liệt chân sau trên nái
8
K
Khó thở, hư hại chức năng tim, mất điều khiển trong di chuyển, phát triển kém
Phân lỏng khi dung>1,2 % khẩu phần
9
NaCl
Ít uống nước, phát triển kém và chuyển hoá thức ăn giảm
Thường xảy ra ở liều dung thông thường cũng gây dư thừa nếu thiếu nước uống và có thể gây chết >2-85, khát, mất phối hợp
10
Se
Bệnh tim dâu, thay đổi cấu trúc cơ xương, chết đột ngột, lông quăn
Tiêu chảy, biến dạng bàn chân, què, suy hô hấp, chết với liều 5-10g/tấn
11
Zn
Sừng hoá da, kém thèm ăn
Giảm ăn với liều > 3000mg
3. Kết luận
Do đó cần bổ sung vitamin và khoáng chất cho vật nuôi đầy đủ để phòng tránh cho vật nuôi mắc các bệnh về dinh dưỡng, thông qua việc sử dụng các sản phẩm như: VITROLYTE, AMILYTE, UMBROTOP, CALPHO, CANXIPRO… với liều lượng 1ml/2-3 lít nước

CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TÌM CÁCH KIỂM SOÁT AFLATOXIN TRONG NGÔ
Các nhà nghiên cứu tại Đại học bang Arizona và các đồng nghiệp quốc tế đã trình diễn một kỹ thuật khử trùng đầy hứa hẹn sử dụng tia X để giảm khả năng sống của Aspergillus flavus trong ngô bị nhiễm bệnh.
Ngô thường bị nhiễm độc tố nấm aflatoxin B1, một chất gây ung thư cực mạnh do nấm Aspergillus flavus sản sinh ra.
Tiếp xúc với aflatoxin gây ra những rủi ro nghiêm trọng cho sức khỏe con người và các loài động vật khác, đồng thời đặt ra những thách thức kinh tế cho các ngành công nghiệp nông nghiệp. Tuy nhiên, do bản chất dễ lây truyền của nấm cùng với độc tính của độc tố, việc nghiên cứu và phát triển các kỹ thuật kiểm soát trong môi trường phòng thí nghiệm có thể gặp khó khăn.
Trongmột nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Toxins, các nhà nghiên cứu tại Đại học bang Arizona và các đồng nghiệp quốc tế của họ đã chứng minh một kỹ thuật khử trùng đầy hứa hẹn sử dụng chiếu xạ tia X để giảm khả năng sống của Aspergillus flavus trong ngô bị nhiễm bệ Phương pháp này đạt được hiệu quả khử trùng mà không làm phân hủy aflatoxin B1 (AFB1) có hại do nấm tạo ra.
Bằng cách vô hiệu hóaAspergillus flavus, phương pháp này ngăn chặn nấm truyền bào tử và sản sinh thêm aflatoxin. Điều này rất quan trọng để cho phép nhiều phòng thí nghiệm tham gia cuộc chiến chống lại việc phòng ngừa và kiểm soát độc tố nấm. Việc ổn định mức độ độc tố cho phép các nhà khoa học phát triển và thử nghiệm các kỹ thuật khắc phục bổ sung nhắm mục tiêu vào quá trình phân hủy aflatoxin mà không gây biến chứng cho sự phát triển liên tục của nấm. Kết quả cho thấy một liều lượng nhỏ bức xạ đã ngăn chặn sự phát triển của nấm Aspergillus flavus .
Công trình này là một phần trong nỗ lực lớn hơn của các nhà nghiên cứu tại Đại học bang Arizona và các đối tác quốc tế, được Viện Y tế Quốc gia hỗ trợ, nhằm xác định các phương pháp tiếp cận chi phí thấp để giảm thiểu sự lây truyền và phơi nhiễm aflatoxin trong các cộng đồng thiểu số.
Hannah Glesener, tác giả chính của nghiên cứu mới, cho biết: “Chúng ta đã biết về aflatoxin từ những năm 1960, nhưng nó vẫn là một vấn đề phổ biến”. “Việc chiếu tia X vào ngô bị ô nhiễm tự nhiên là một bước tiến thú vị hỗ trợ cho công trình nghiên cứu của nhóm nghiên cứu của chúng tôi trong việc phát triển các giải pháp cho những thách thức liên quan đến aflatoxin, chẳng hạn như tình trạng suy dinh dưỡng mãn tính”.
Glesener là trợ lý nghiên cứu sau đại học tại Trung tâm Thiết kế sinh học vì sức khỏe thông qua hệ vi sinh vật và là nghiên cứu sinh tiến sĩ về thiết kế sinh học tại Khoa Kỹ thuật Vật chất, Vận chuyển và Năng lượng của ASU.
Nhóm nghiên cứu hiện đang đánh giá các chiến lược nấu ăn tại hộ gia đình để kiểm soát độc tố nấm này cũng như vai trò của hệ vi sinh vật đường ruột của con người trong việc giải độc thực phẩm trước khi hấp thụ vào máu.
Tổng quan nghiên cứu
Mục tiêu chính của nghiên cứu, do tác giả liên hệ và Giáo sư nghiên cứu trợ lý Lee Voth-Gaeddert đứng đầu, là xác định liều chiếu xạ tối ưu cần thiết để loại bỏ khả năng sống của nấm trong khi vẫn bảo toàn nồng độ aflatoxin B1 cho các nghiên cứu giải độc tiếp theo.
Những kết quả này mở ra những hướng đi mới để xử lý và nghiên cứu an toàn các sản phẩm thực phẩm bị ô nhiễm mà không làm ảnh hưởng đến các đặc tính cấu trúc và hóa học cần thiết cho phân tích khoa học. Nó có thể dẫn đến những cách tiếp cận mới cho các giải pháp có thể mở rộng và hiệu quả đối với tình trạng ô nhiễm mycotoxin áp dụng trên nhiều khu vực khác nhau, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nơi các biện pháp an toàn thực phẩm thường bị hạn chế.

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC TÁC NHÂN GÂY BỆNH TRONG THỨC ĂN ĐẾN NĂNG SUẤT LỢN NÁI
Trong sản xuất lợn thương mại, năng suất của lợn nái là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến thành công và lợi nhuận của toàn bộ hoạt động. Tuy nhiên, các tác nhân gây bệnh từ thức ăn gây ra mối đe dọa đáng kể đến sức khỏe của lợn nái, dẫn đến giảm năng suất sinh sản, tăng tỷ lệ tử vong và tổn thất kinh tế đáng kể. Trong cuộc phỏng vấn này, Tiến sĩ Francisco Domingues, Giám đốc kỹ thuật Anitox của Global Swine Markets, thảo luận về những thách thức chính do các tác nhân gây bệnh này gây ra, tác động của chúng đến năng suất của lợn nái và các chiến lược tốt nhất để giảm thiểu những rủi ro này nhằm đảm bảo đàn lợn khỏe mạnh và năng suất.
1. Những loại mầm bệnh lây truyền qua thức ăn cụ thể nào thường liên quan nhất đến việc giảm năng suất lợn nái trong hoạt động chăn nuôi lợn công nghiệp?
Tiến sĩ Francisco Domingues: Trong hoạt động chăn nuôi lợn thương mại, các tác nhân gây bệnh phổ biến nhất liên quan đến việc giảm năng suất lợn nái chủ yếu là các loại vi-rút như Hội chứng sinh sản và hô hấp ở lợn (PRRS) và Dịch tiêu chảy ở lợn (PED). Các tác nhân gây bệnh này nổi tiếng là gây ra tình trạng mất năng suất nghiêm trọng trên khắp các trang trại, đặc biệt là trong thời gian bùng phát dị Hậu quả có thể rất nghiêm trọng, dẫn đến mất thai, sảy thai, tỷ lệ tử vong ở lợn con cao, tỷ lệ tử vong ở lợn nái tăng và hiệu suất sinh sản nói chung kém.
- Tiến sĩ Francisco Domingues, Giám đốc kỹ thuật Anitox của Global Swine Markets: “Bằng cách giảm thiểu lượng mầm bệnh trong thức ăn, người sản xuất có thể giảm nguy cơ lây truyền bệnh tật, bảo vệ sức khỏe và tuổi thọ của lợn nái và cuối cùng là cải thiện lợi nhuận của họ”.
Hơn nữa, tác động tài chính là rất lớn. Theo dữ liệu từ Đại học bang Iowa (ISU), riêng tại Hoa Kỳ, PRRS gây ra thiệt hại ước tính 380 triệu đô la Mỹ hàng năm trong đàn lợn giống, với tổng thiệt hại, bao gồm cả thiệt hại từ lợn đang lớn, lên tới khoảng 1,2 tỷ đô la Mỹ hàng năm, nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết về các biện pháp kiểm soát mầm bệnh mạnh mẽ trong chăn nuôi lợn.
2. Các tác nhân gây bệnh trong thức ăn ảnh hưởng như thế nào đến hiệu suất sinh sản và kết quả lứa đẻ ở lợn nái, bao gồm tỷ lệ sinh sản và tỷ lệ sống của lợn con?
Tác động có hại của các loại virus lợn như PRRS và PED đối với hiệu suất sinh sản đã được ghi chép đầy đủ. Các tác nhân gây bệnh này có khả năng vi phạm các biện pháp an toàn sinh học, thường là thức ăn bị ô nhiễm đóng vai trò là phương tiện truyền bệnh. Các báo cáo về việc truyền bệnh qua thức ăn đã trở nên thường xuyên hơn trong vài năm trở lại đây, thúc đẩy sự hiểu biết của ngành về thức ăn như một vật trung gian truyền bệnh do virus.
Khi mầm bệnh xâm nhập vào đàn lợn nái thông qua thức ăn, chúng có thể tàn phá kết quả sinh sản. Tỷ lệ sinh sản có thể giảm mạnh và tỷ lệ sống sót của lợn con có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hiểu được tất cả các nguồn lây nhiễm tiềm ẩn, bao gồm cả thức ăn bị ô nhiễm, là điều rất quan trọng. Bằng cách tăng cường các biện pháp an toàn sinh học và cảnh giác về rủi ro ô nhiễm thức ăn, người chăn nuôi có thể bảo vệ đàn lợn của mình tốt hơn khỏi các mầm bệnh có hại này.
3. Những cơ chế chính mà các tác nhân gây bệnh trong thức ăn ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể và tuổi thọ của lợn nái trong môi trường là gì?
Các tác nhân gây bệnh từ thức ăn có hại rất lớn đến sức khỏe của nái, thường dẫn đến bệnh lan rộng trong đàn trong thời gian bùng phát. Điều này có thể bao gồm sự phát triển kém của nái tơ ngây thơ, là vật nuôi giống trong tương lai. Nái tơ bị ảnh hưởng sớm bởi các tác nhân gây bệnh thường bị còi cọc, từ đó làm giảm hiệu suất và tuổi thọ của chúng trong suốt cuộc đời sinh sản.
Tác động tích lũy của các đợt bùng phát dịch bệnh lặp đi lặp lại là sự suy giảm đáng kể về sản lượng heo con và hiệu suất chung của từng con nái. Do đó, việc giảm thiểu tần suất bùng phát dịch bệnh thông qua các biện pháp an toàn sinh học và vệ sinh thức ăn hiệu quả là điều cần thiết để thúc đẩy hiệu suất và lợi nhuận của đàn trong dài hạn. Càng ít đợt bùng phát dịch bệnh ở một trang trại, năng suất chung và kết quả kinh tế càng tốt.
4. Làm thế nào để giảm thiểu tình trạng ô nhiễm nguồn thức ăn do mầm bệnh để bảo vệ năng suất của lợn nái và các biện pháp tốt nhất để vệ sinh thức ăn trong chăn nuôi lợn thương phẩm là gì?
Chìa khóa để ngăn ngừa các tác nhân gây bệnh từ thức ăn ảnh hưởng đến năng suất của lợn nái nằm ở các biện pháp an toàn sinh học mạnh mẽ. Người ta hiểu rõ các tác nhân gây bệnh này gây hại cho đàn như thế nào, nhưng việc xác định và giải quyết các cách khác nhau mà chúng có thể xâm nhập vào hệ thống là rất quan trọng.
Cải thiện an toàn sinh học xung quanh các thành phần thức ăn và nhà máy thức ăn là điều cần thiết. Điều này bao gồm việc triển khai các chất khử trùng thức ăn để duy trì các tiêu chuẩn vệ sinh thức ăn cao. Nhiều nhà sản xuất dựa vào quy trình tạo viên để giảm thiểu các tác nhân gây bệnh ở lợn, nhưng hiệu quả của xử lý nhiệt có thể khác nhau do sự khác biệt về khả năng chịu nhiệt của tác nhân gây bệnh, thiết bị, nhiệt độ và thời gian lưu giữ. Sự không nhất quán này khiến việc chỉ dựa vào tạo viên như một biện pháp phòng ngừa trở nên khó khăn. Trên thực tế, nghiên cứu gần đây của Balestrerivà cộng sự (2024) đã chỉ ra rằng xử lý nhiệt ở 100°C trong 60 phút có thể không làm giảm mức vi-rút trong thức ăn xuống dưới liều nhiễm trùng tối thiể
Ngoài ra, còn có nguy cơ thức ăn bị tái nhiễm bẩn sau khi xử lý nhiệt, tại nhà máy thức ăn chăn nuôi hoặc trong quá trình vận chuyển và xử lý trước khi thức ăn đến máng ăn tại trang trại. Vì lý do này, sử dụng chất khử trùng thức ăn chăn nuôi có hoạt tính còn lại đáng tin cậy là một chiến lược hiệu quả hơn để tăng cường an toàn sinh học thông qua thức ăn trong hoạt động chăn nuôi lợn thương mại.
5. Tác nhân gây bệnh trong thức ăn đóng vai trò như thế nào trong việc truyền bệnh ở lợn nái và điều này ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả kinh tế của sản xuất lợn thương mại?
Các ấn phẩm gần đây đã cung cấp bằng chứng rõ ràng về những rủi ro liên quan đến tải lượng mầm bệnh trong thức ăn. Người ta đã chứng minh rằng nhiều loại mầm bệnh ở lợn, bao gồm cả vi-rút, có thể tồn tại trong thức ăn và nếu lợn ăn phải, có thể dẫn đến nhiễm trùng và phát triển bệnh.
Hiểu được tác động của các tác nhân gây bệnh trong thức ăn đối với năng suất heo con, tỷ lệ tử vong ở nái tăng và hiệu suất chung của nái kém hơn đặc biệt là trong các hoạt động trải qua các đợt bùng phát dịch bệnh liên tiếp làm nổi bật tác động tiêu cực đáng kể đến chi phí sản xuất và hiệu quả kinh tế. Các tác nhân gây bệnh này không chỉ là mối quan tâm về sức khỏe mà còn là gánh nặng tài chính lớn đối với các hoạt động chăn nuôi lợn trên toàn cầ
Việc giải quyết các tác nhân gây bệnh từ thức ăn thông qua tăng cường an toàn sinh học, thực hành vệ sinh thức ăn và sử dụng chất khử trùng thức ăn hiệu quả là rất quan trọng để bảo vệ năng suất lợn nái và đảm bảo tính bền vững về mặt kinh tế của hoạt động sản xuất lợn thương mại. Bằng cách giảm thiểu tải lượng tác nhân gây bệnh trong thức ăn, người sản xuất có thể giảm nguy cơ lây truyền bệnh, bảo vệ sức khỏe và tuổi thọ của lợn nái và cuối cùng là cải thiện lợi nhuận của họ.
Môi trường chăn nuôi
