



Ngày 09/9, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến đã ký ban hành Công văn số 6641/BNN-TYgửi UBND 28 tỉnh, thành phố đề nghị chủ động phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi sau mưa, lũ.
Công văn được gửi đến Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố gồm: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Bộ NN&PTNT ra công văn khẩn đề nghị 28 tỉnh, thành phố chủ động phòng, chống dịch bệnh cho vật nuôi sau mưa, lũ.
Trong Công văn của Bộ NN&PTNT nêu rõ, thời gian qua, thời tiết tại nhiều địa phương miền Bắc đã diễn biến phức tạp, mưa lớn gây lũ lục, đặc biệt từ ngày 07/9/2024, cơn bão số 3 (hay còn gọi là bão Yagi) đã đổ bộ vào các tỉnh phía Bắc, gây ra những đợt mưa lớn, lũ lớn và gây thiệt hại nghiêm trọng tại nhiều địa phương; nguy cơ dịch bệnh nguy hiểm trên gia súc, gia cầm phát sinh và lây lan sau đợt mưa, lũ này là rất cao.
Để chủ động phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi, xử lý môi trường sau mưa lũ, Bộ NN&PTNT đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo các Sở, ban ngành và các đơn vị có liên quan của địa phương khẩn trương tổ chức thực hiện tổng vệ sinh, tiêu độc, khử trùng ngay sau khi đợt mưa, lũ kết thúc để tiêu diệt các loại mầm bệnh trong môi trường. Hướng dẫn người chăn nuôi thường xuyên thực hiện vệ sinh khu vực chăn nuôi và dụng cụ chăn nuôi; thu gom, xử lý chất thải chăn nuôi không để gây ô nhiễm môi trường. Trường hợp xảy ra úng ngập, di dời đàn vật nuôi lên vị trí cao hơn; khi nước rút cần thực hiện ngay vệ sinh, tiêu độc khử trùng khu vực chăn nuôi trước khi đưa vật nuôi trở lại chuồng nuôi.
Bên cạnh đó, cần chăm sóc, nâng cao sức đề kháng cho đàn vật nuôi bằng cách cung cấp đầy đủ thức ăn, bổ sung dinh dưỡng phù hợp với từng đối tượng nuôi, đồng thời bổ sung vitamin và các khoáng chất cần thiết cho đàn vật nuôi. Rà soát, tổ chức tiêm phòng đầy đủ các loại vaccine cho gia súc, gia cầm theo đúng quy định, đặc biệt đối với đàn gia súc, gia cầm tại nơi đã từng xảy ra dịch bệnh, nơi có nguy cơ cao, nơi bị lũ lụt…
Tăng cường công tác giám sát để phát hiện sớm, kịp thời xử lý trường hợp gia súc, gia cầm mắc bệnh, nghi mắc bệnh nguy hiểm như dịch tả heo châu Phi, cúm gia cầm, lở mồm long móng, viêm da nổi cục ở trâu bò, tai xanh.
Hướng dẫn chủ vật nuôi báo ngay cho chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn thú y để tiến hành điều tra và xử lý ổ dịch theo đúng quy định. Không giết mổ, mua bán động vật ốm, chết; không vứt xác động vật chết do mắc bệnh ra ngoài môi trường.
Đồng thời, tham mưu chính quyền, các sở, ban ngành có phương án hỗ trợ con giống, hóa chất xử lý môi trường, tiêu hủy động vật chết, thuốc và vaccine phòng trị bệnh cho đàn vật nuôi; đồng thời báo cáo kịp thời về Bộ NN&PTNT (Cục Thú y) những khó khăn, vướng mắc và hỗ trợ hóa chất trong công tác khắc phục hậu quả mưa lũ, các vấn đề phát sinh liên quan đến công tác thú y của địa phương, đặc biệt là công tác phòng, chống dịch bệnh động vật gia súc, gia cầm trên địa bàn, để tổng hợp, đề xuất Chính phủ, Bộ NN&PTNT phương án hỗ trợ kịp thời.
Cùng với đó, thành lập các đoàn công tác đến các địa phương để chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn thực hiện công tác phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi và xử lý môi trường sau mưa lũ.

BỆNH KÝ SINH TRÙNG ĐƯỜNG MÁU TRÊN HƯƠU SAO
1. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh ký sinh trùng đường máu trên hươu sao chủ yếu do ký sinh trùng Trypanosoma evansi gây ra.
Ký sinh trùng này được truyền qua đường máu thông qua các loại côn trùng hút máu như ruồi trâu (Tabanidae), muỗi, và ve.
2. Cơ chế lây truyền
Trypanosoma evansi lây nhiễm qua vết cắn của côn trùng hút máu đã nhiễm bệnh. Khi côn trùng này hút máu của một con vật khỏe mạnh, ký sinh trùng sẽ xâm nhập vào máu và gây nhiễm trùng.
Ngoài ra, bệnh cũng có thể lây truyền qua việc sử dụng chung kim tiêm hoặc các dụng cụ thú y chưa được khử trùng đúng cách.
3. Triệu Chứng Lâm Sàng
Bệnh ký sinh trùng đường máu ở hươu sao có thể biểu hiện qua nhiều triệu chứng khác nhau, tùy thuộc vào giai đoạn nhiễm bệnh và mức độ nghiêm trọng của bệnh:
a. Triệu chứng cấp tính:
Sốt cao: Hươu sao thường xuất hiện sốt cao đột ngột và có thể kéo dài, nhiệt độ cơ thể thường dao động từ 39°C đến 42°
Mệt mỏi và lờ đờ: Hươu có dấu hiệu mệt mỏi rõ rệt, giảm hoạt động, thường đứng hoặc nằm lỳ một chỗ.
Chán ăn: Hươu sao có thể mất cảm giác thèm ăn, dẫn đến giảm lượng thức ăn tiêu thụ.
Thiếu máu: Niêm mạc mắt, miệng và lưỡi có màu nhợt nhạt hơn bình thường do thiếu máu.
Giảm trọng lượng: Giảm cân nhanh chóng do mất nước và dinh dưỡng, cơ thể hươu trở nên gầy gò.
Sưng hạch bạch huyết: Các hạch bạch huyết ở vùng cổ, nách, và bẹn có thể bị sưng.
Phù nề: Đặc biệt là vùng bụng, chân, và cổ có thể bị phù nề do rối loạn tuần hoàn.
Chảy máu: Xuất hiện các đốm xuất huyết nhỏ dưới da, niêm mạc hoặc trên các cơ quan nội tạng.
b. Triệu chứng mãn tính:
Giảm cân kéo dài: Hươu tiếp tục giảm cân mặc dù đã giảm triệu chứng sốt.
Suy nhược toàn thân: Hươu yếu ớt, lông xù, không còn bóng mượt, và có thể xuất hiện các dấu hiệu của bệnh suy kiệt.
Rối loạn thần kinh: Một số hươu có thể xuất hiện các triệu chứng thần kinh như run rẩy, liệt hoặc đi không vững.
Vàng da và niêm mạc: Xuất hiện triệu chứng vàng da do gan bị tổn thương và phá hủy hồng cầu.
4. Bệnh Tích
Bệnh tích của bệnh ký sinh trùng đường máu trên hươu sao thường được quan sát rõ khi thực hiện khám nghiệm động vật mắc bệnh hoặc đã chết:
a. Bệnh tích trên hệ tuần hoàn:
Thiếu máu: Mô và cơ quan bên trong có màu nhợt nhạt, đặc biệt là gan, lá lách, và thận.
Xuất huyết: Có thể thấy các đốm xuất huyết nhỏ (điểm xuất huyết) trên màng nhầy của niêm mạc miệng, mắt, và các cơ quan nội tạng.
b. Bệnh tích trên các cơ quan nội tạng:
Gan: Gan thường sưng to, có màu vàng hoặc xám, và xuất hiện các đốm xuất huyết nhỏ.
Lá lách: Lá lách sưng to hơn bình thường, màu đỏ sẫm do ứ máu.
Thận: Thận có thể bị phù nề và xuất huyết, màu sắc thay đổi do thiếu máu và các tổn thương viêm nhiễm.
c. Bệnh tích trên hệ thần kinh:
Viêm não: Một số trường hợp nhiễm trùng nặng có thể gây viêm não, làm tổn thương mô não và dẫn đến rối loạn thần kinh.
d. Bệnh tích trên các cơ quan khác:
Phổi: Phổi có thể bị viêm và xuất hiện dịch trong phế quản do thiếu máu và suy giảm miễn dịch.
Tim: Mô cơ tim có thể bị viêm và suy yếu, dẫn đến suy tim trong những trường hợp nặng.
5. Chẩn đoán
Phương pháp trực tiếp: Quan sát ký sinh trùng trong mẫu máu dưới kính hiển vi. Đây là phương pháp phổ biến và đơn giản nhất để xác định bệnh.
Phương pháp gián tiếp: Sử dụng các xét nghiệm huyết thanh học như ELISA hoặc PCR để phát hiện kháng thể hoặc DNA của ký sinh trùng trong máu.
6. Điều trị
Điều trị bệnh ký sinh trùng đường máu trên hươu sao thường sử dụng các loại thuốc chống trypanosome như- SULTRIM 1000, Liều 1g/30-50kg TT/ngày. Dùng liên tục 3-5 ngày.
Dùng thuốc trợ sức, trợ lực như: SUPER C 1000, AMILYTE…
Để đạt hiệu quả tối ưu, việc điều trị cần được thực hiện kịp thời và kết hợp với các biện pháp chăm sóc hỗ trợ, như cung cấp dinh dưỡng tốt, duy trì sức khỏe tổng quát, và quản lý căng thẳng cho hươu.
7. Phòng ngừa
Kiểm soát và tiêu diệt côn trùng hút máu là biện pháp phòng ngừa quan trọng nhất. Sử dụng thuốc diệt côn trùng, lưới chống muỗi, và duy trì vệ sinh chuồng trại sạch sẽ.
Thường xuyên phun sát trùng chuồng trại bằng KLOTAB 1 viên cho 10 lít nước, DESINFET 0, DESINFET GULTAR ACTIVE
Thực hiện quản lý an toàn sinh học, bao gồm việc sử dụng kim tiêm và dụng cụ thú y riêng biệt cho từng con vật, và thực hiện cách ly những con vật mới nhập vào đàn trước khi nhập chung với các con vật khỏe mạnh.
Tiêm phòng: Mặc dù hiện chưa có vắc-xin đặc hiệu cho Trypanosoma evansi, nhưng việc sử dụng các biện pháp phòng ngừa khác có thể giảm nguy cơ bùng phát dịch.
8. Ảnh hưởng của bệnh
Bệnh ký sinh trùng đường máu gây ra tổn thất lớn cho người chăn nuôi hươu sao do giảm năng suất, chi phí điều trị cao, và tỷ lệ tử vong cao nếu không được điều trị kịp thời.
Ngoài ra, bệnh còn ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm từ hươu như sừng hươu và thịt hươu, làm giảm giá trị kinh tế của người chăn nuôi.

ẢNH HƯỞNG CỦA DINH DƯỠNG TỚI VIỆC CẢI THIỆN KHẢ NĂNG MỌC LÔNG Ở GÀ THỊT
Thành phần dinh dưỡng, lượng ăn vào hay các chất kháng dinh dưỡng và các chất phụ gia khác có trong khẩu phần ăn đều có ảnh hưởng đến sự phát triển của lông vũ gà.Do lông vũ có hàm lượng protein và axit amin cao nên 2 loại chất này rất đáng được các nhà chăn nuôi quan tâm hơn.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, hàm lượng protein, cụ thể hơn là protein thô trong khẩu phần ăn có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái tạo lông.Khi cho gà ăn khẩu phần nhiều protein thô hơn thì cho thấy gà có nhiều lông hơ
Mặc khác việc lông kém là một vấn đề đáng lo ngại. Khi gà con nhỏ hơn 10 – 15 ngày tuổi được cho ăn khẩu phần ăn dưới 16% protein thì thường có bộ lông kém phát triể
Ở gà giống, bộ lông của gà thịt hay màu chân của gà mái luôn là khía cạnh được quan tâm nhiều nhất trong quá trình chăn nuôi gà suốt nhiều thập kỷ. Trong thời gian trở lại đây, sự phát triển của lông gà cũng đã được quan tâm nhiều hơn như việc lông rụng xuất hiện ở 45 tuần tuổi trước 8-10 tuần.
Nếu lông có vẻ khô, giòn và dễ gãy thì các vấn đề này có thể liên quan đến chất lượng lông phát triển kém, lông bị tổn thương hoặc do cả hai yếu tố hoặc có liên quan tới việc giao phối muộn khi đẻ (do da trần của gà mái bị gà trống cào) và khả năng chịu lạnh kém hơn do lớp lông che phủ giảm. Nếu lớp lông che phủ kém trong những tháng mùa đông kết hợp với việc không tăng khẩu phần ăn đôi khi sẽ dẫn tới lông kém phát triển.
1. Protein có lợi cho sự phát triển lông ở gà hậu bị.
Do sự thay lông và mọc lông gần như liên tục trong giai đoạn đẻ trứng ở gà hậu bị nên chế độ dinh dưỡng phải tối ưu để lông có thể phát triển bình thường.
a. Kiểm soát tốt khối lượng cơ thể là chìa khóa của vấn đề này.
Nếu khối lượng gà hậu bị vượt quá đường cong tăng trưởng trong giai đoạn phát triển và phải sử dụng các biện pháp giảm lượng ăn để giảm sự tăng trưởng thì khi đó chất lượng lông có thể bị ảnh hưởng.
Một lần nữa, việc chú ý theo dõi đường cong tăng trưởng ở gà hậu bị và khi đưa gà vào sản xuất có thể giúp giảm thiểu các vấn đề về lông trong giai đoạn đẻ. Một nghiên cứu được thực hiện ở Đại Học Auburn, khi sử dụng mức protein khác nhau ở gà hậu bị cho đến 6 tuần tuổi, cho thấy sự khác biệt đáng chú ý về khả năng mọc lông ở 10 tuần tuổi.
b. Thức ăn khởi động của gà hậu bị có khoảng 19 đến 20% protein thô
- Thường được sử dụng trong bốn tuần tuổi đầu nhưng nếu kéo dài thời gian cho ăn thức ăn khởi động tới 6 tuần tuổi có thể giúp tăng được lượng protein ăn vào sớm và tăng cường sự sớm phát triển của lông. Mặc dù những con gà hậu bị có ba lần thay lông trước khi đạt sản lượng trứng cao nhất, nhưng khi dinh dưỡng giai đoạn đầu tốt giúp tăng cường chất lượng lông vẫn có thể được đưa vào chuồng đẻ.
- Một số loại protein thô hiện nay đang được nhiều nhà máy sản xuất thức ăn sử dụng nhưđạm đơn bào dạng lỏng FML, đạm đơn bào dạng bột Ajtein, đạm đơn bào dạng viên Vedafeed với tỷ lệ đạm từ 25% – 60%. Loại đạm thô này có giá thành hợp lý, chất lượng cao được đảm bảo chỉ tiêu từ nhà sản xuất.
2. Các phương pháp tiệm cận từ dinh dưỡng
Lông có cấu tạo chủ yếu từ protein, và các công ty chăn nuôi gia cầm đã thực hiện một số thay đổi để tăng lượng acid amin mà gà mái cần để tối đa hóa sự phát triển lông hoặc tăng các khoáng vi lượng hoặc vitamin có liên quan tới việc tạo ra protein ở lông.
a. Acid amin
Bất kỳ cuộc thảo luận nào đến sự liên quan của dinh dưỡng đối với việc giúp lông vũ phát triển đều tập trung vào 2 loại acid amin chính đó làCytine và Methionine có trong khẩu phần ă Ngoài ra, các axit amin chủ yếu tham gia vào quá trình tổng hợp keratin lông vũ là các amin chứa lưu huỳnh và 2 loại trên.
Tỷ lệ của các axit amin chứa lưu huỳnh có trong da thường lớn hơn nhiều so với trong mô cơ. Do đó, sự thiếu hụt nhẹ các axit amin này trong chế độ ăn của gà sẽ khiến chúng mọc lông bất thường.
Cystine là axit amin phổ biến nhất trong lông vũ, chiếm khoảng 9% tổng số axit amin, mặc dù valine, arginine và leucine cũng có nồng độ cao. Đây là một tính toán thú vị để đo tỷ lệ axit amin được gà thịt tiêu thụ mỗi tuần (Bảng 1). Nếu những tính toán này là chính xác thì điều đó chỉ ra rằng lượng valine và arginine hấp thụ cũng rất quan trọng cho sự phát triển của lông.
Bảng 1 –Tính tỷ lệ axit amin tiêu hóa tích tụ trong lông của gà thịt lai Ross 708.
Tuổi
Lysine
Meth
Cys
Threo
Valine
Arg
0-10 ngày
8%
8%
84%
12%
28%
21%
11-24 ngày
6%
6%
62%
9%
21%
16%
24-39 ngày
5%
5%
52%
8%
18%
14%
40-56 ngày
3%
4%
36%
5%
12%
9%
Mặc dù Methionine và Cystine là những thành phần quan trọng của lông nhưng chỉ có thể bổ sung Methionine thông qua thức ăn của gia cầm. Nhiều công ty chăn nuôi gia cầm thịt đã tăng lượng Methionine trong thức ăn gà giống của họ bằng cách tăng tổng tỷ lệ acid amin chứa lưu huỳnh (TSAA) – so với lysine trong giai đoạn hậu bị và đẻ.
Trong nhiều trường hợp, tỷ lệ TSAA tiêu hóa trên lysine tiêu hóa là xấp xỉ 100 đến 105% để kích thích sự phát triển lông.Trong khi Methionine và Cystine nhận được nhiều sự quan tâm tới quá trình tạo lông thì các acid amin khác không nên bị bỏ qua vì chúng có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo lô
Các acid amin chuỗi nhánh (valine, isoleucine và leucine)và arginine có hàm lượng tương đối cao trong protein ở lông. Một số chuyên gia dinh dưỡng đặt mức tối thiểu cho các dinh dưỡng này, trong khi một số khác đặt mức protein tối thiểu để bảo đảm hơn.
Tăng hàm lượng vitamin B (pyridoxine, biotin)giúp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lông và tăng tính khả dụng của vitamin. Các chuyên gia dinh dưỡng của các công ty gia cầm khác đã tăng lượng acid folic bổ sung vào khẩu phần thức ăn vì acid folic tham gia vào quá trình sinh hóa giúp chuyển hóa methionine thành cysteine.
Cysteine là thành phần đặc biệt quan trọng trong lông, nhưng rất khó để tăng hàm lượng cysteine trong thức ăn thông qua các nguyên liệu có sẵn.
Vì lý do này, tất cả các cách thức giúp tăng việc sử dụng methionine trong thức ăn để cải thiện lông được tối ưu hóa.
Ngoài ra, thiếu chất xơ trong khẩu phần có thể gây ra hiện tượng mổ và ăn lông của nhau.
b. Vitamin, khoáng chất và khoáng vi lượng
Sự thiếu hụt hầu hết các loại vitamin và khoáng chất thiết yếu đều gây ra tình trạng lông mọc bất thường. Ví dụ như thiếu hụt riboflavin có lẽ gây ra những dấu hiệu đặc trưng nhất ở phôi và gà con như biểu hiện cụp xuống với một đầu lông phồng lên ở đầu mỗi lông tơ (hình minh họa bên dưới).
Trong một vài năm gần đây,tỷ lệ gà con bị mắc bệnh này ngày càng tăng, dễ nhìn thấy nhất là ở các trại gà giống và người ta thường gọi đây là hội chứng suy nhược. Và nguyên do dễ thấy nhất là tình trạng không đáp ứng đủ riboflavin vào khẩu phần ăn.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy nguyên nhân khác có thể là do gà giống bị thiếu kẽm docho ăn quá nhiều canxi và sắt. Mặt khác, có thể là do một loại virus astrovirus từ người nuô
Nhiều năm trước, các nhà nghiên cứu ở Úc cho rằng việc lông cụp xuống có liên quan đến cái gọi là“ginger hairs” trên vùng cổ của gà con mới nở là do sự thiếu hụt chuyển hóa của molypden.
Còn về khoáng vi lượng, nếu không bổ sung đủ thì cũng sẽ gây cản trở sự phát triển của lông. Ví dụ như thiếukẽm, thiếc, crom, niken hay vanadi…
Trong đó,kẽm được đánh giá là quan trọng nhất trong sự phát triển lông tốt hay không. Nếu thiếu kẽm, lông thường bị sờn, đặc biệt là có ảnh hưởng xấu đến lông cánh sơ cấp ở giai đoạn đang phát triển. Hoặc trục lông cách nang lông khoảng 3cm sẽ có các vết phồng rộp đặc trưng và ở điểm này, lông thường dễ gãy.
Thiếu kẽm còn gây ra hiện trạnglông “hình thìa”, không có cánh phát triển gần nang lô Lông hình chiếc thìa cũng được mô tả ở những loài chim bị nhiễm vi rút “reticulo-endothelial virus”.
Lông từ những con gà hậu bị và những con gà giống bị stress sẽ xuất hiện những đường stress (những đường mờ theo chiều ngang của lông) do thiếu kẽm tạm thời (vì nhu cầu kẽm của gà thường tăng trong khoảng thời gian stress). Các đường stress này mờ hơn phần còn lại của lông và lông sẽ dễ đứt gãy tại vị trí đó.
Một khoáng chất khác đang được quan tâm hiện nay làđộc tính của boron, chất này đôi khi được sử dụng làm chất độn chuồng để kiểm soát bọ cánh cứ Không rõ liệu axit boric có gây ra vấn đề nghiêm trọng cho lông do tiếp xúc với da hay chúng bị ảnh hưởng do ăn phải chất độn chuồng bị ô nhiễm?
Ngoài ra,I-ốt cũng là một chất dinh dưỡng quan trọng cho quá trình tạo lông vì có mối liên hệ mật thiết với quá trình trao đổi chất của tuyến giá Trước đây, chúng ta có thể đã đánh giá thấp nhu cầu thay lông bằng I-ốt của gia cầm, vì đối với hầu hết các loại gia cầm, yêu cầu về chế độ ăn uống luôn được công bố trong sách hướng dẫn chăn nuôi ở mức 1ppm.
Ngày nay chúng tôi nhận thấy rằng mức 2-3ppm có lẽ phù hợp hơn để lông phát triển tối ưu. Theo đó, bột ngô và đậu nành đều chứa khoảng 0,2ppm iốt, còn lúa mì thấp hơn nhiều ở mức 0,1ppm, cao lương và hạt kê đặc biệt thấp ở mức 0,03ppm.
Có thể thấy vitamin và khoáng chất cũng có thể giúp cải thiện sự phát triển lông. Vì vậy mà nhiều công ty gia cầm đã tăng hàm lượng khoáng vi lượng vào trong công thức thức ăn chăn nuôi.
Một số đơn vị sẽ chọnkẽm, đồng và selen để giúp gà dễ tiêu hóa hơn từ các nguồn hữu cơ (vì các khoáng hữu cơ đã được chứng minh là có khả năng tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng).
Nhiều nghiên cứu về nguồn kẽm hữu cơ đã cho thấy khi bổ sung tăng cường kẽm, việc mọc lông trở lại được cải thiện ở những con gia cầm đang phát triển. Ngoài ra, sự cải thiện về khối lượng lông của gà thịt cũng được cải thiện khi bổ sung selen hữu cơ.
c. Độc tố nấm mốc
Nếu xuất hiện độc tố nấm mốc trong thành phần nguyên liệu cho gia cầm ăn thì sẽ gây ra nhiều bất thường cho sự phát triển của lông. Nếu chúng được cho ăn với nguyên liệu có hàm lượng lớn độc tố T-2 thì chúng chỉphát triển được một lớp lông phủ thưa thớt và có xu hướng mọc dầy/nhô lên ở những góc khuất/góc lạ thường trên da của con gà.
Có một khả năng cho rằng độc tố này đã làm thay đổi quá trình chuyển hóa của một số chất dinh dưỡng khác, do đó có thể nó là tác động gián tiếp.
Đối với việc nhiễm độc T-2, hầu hết các lông trên cơ thể đều bị ảnh hưởng, không giống như tình trạng cục bộ được thấy với sự mất cân bằng vitamin hoặc axit amin. Tuy nhiên, các vấn đề về lông xảy ra với khoảng 5-15ppm độc tố T-2 trong khẩu phần ăn cần mức độ cao bất thường trong các loại hạt như ngô/bắp.Các vấn đề của T-2 có liên quan đến bệnh helicopter (lông bất thường) ở thực tế. Các trục lông có xu hướng có một đường cong nổi bật cách xa cơ thể và trong một số trường hợp có một vạch tối rõ ràng trên lông khoảng 1/4 chiều dài tính từ đầu lông.
Ngoài ra, hiện tượng chậm mọc lông ở gà thịt còn bị gây ra bởi Ochratoxin.
Bên cạnh đó, sự hiện diện của nhiều loại độc tố nấm mốc, ở mức độ không nhiều lắm, cũng có thể có tác động bất lợi đến quá trình mọc lông ngay cả khi tất cả người nuôi đáp ứng đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng khác.
Một nghiên cứu khác cũng cho rằng,một số độc tố scirpentriol do nấm mốc Fusarium tiết ra đã làm cho lông bị sờn với độ phủ của lông kém ở các gà đang lớn. Những chiếc lông bị ảnh hưởng có thể không chịu được sự khắc nghiệt trong suốt chu kỳ sinh sả
Nhìn chung, các chuyên gia dinh dưỡng từ các công ty gia cầm đã thay đổi một số chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn để giúp khắc phục các vấn đề trên lông ở gia cầm.
Dinh dưỡng gà hậu bị và gà giống có thể góp phần cải thiện các vấn đề về lông ở lứa đẻ từ giữa tới cuối.
Các chuyên gia ở nhiều công ty đã thực hiện một số thay đổi trong công thức thức ăn để giúp chúng giữ bộ lông được tối ưu và cũng như tạo ra các chương trình cho ăn trong thực tế để có thể bổ sung cho những thay đổi trên bằng cách theo dõi và kiểm tra cẩn thận bộ lông của chúng theo từng giai đoạn và độ tuổi.
d. Những ý quan trọng khác
Một vấn đề khác thường được nêu ra khi xảy ra các bất thường về lông là nguồn methionine được sử dụng, dưới dạng DL Methionine hoặc chất tương tự hydroxy của nó. Việc xem xét tài liệu cho thấy không có sự khác biệt giữa các nguồn này về mặt trao đổi chất nói chung và đặc biệt là đối với lông.
Mặc dù bộ lông phát triển bất thường có thể được sử dụng để hỗ trợ chẩn đoán thiếu hụt axit amin và các chất dinh dưỡng khác, nhưng kết quả thường không cụ thể, chẳng hạn như sự đối kháng, thiếu hụt và/hoặc mất cân bằng của axit amin (và nhiều chất dinh dưỡng khác) thường dẫn đến những bất thường tổng thể tương tự về bộ lông.
Ví dụ, sự mất cân bằng của leucine và valine, hoặc thậm chí glycine, phenylalanine và tyrosine đều gây ra các loại bất thường về lông tương tự ở gà con.
Trong hầu hết các tình huống, trong chế độ ăn thiếu hụt hoặc mất cân bằng như gà con sẽ xuất hiện tình trạng “lông xù” và khi kiểm tra kỹ hơn, lông trên cơ thể chúng thường nhô ra khỏi cơ thể trong khi lông cánh sơ cấp luôn không có vỏ bọc sát cơ thể.
Công trình nghiên cứu kinh điển của Mario Penz cách đây vài năm đã cho thấy tác động của sự mất cân bằng các axit amin chuỗi nhánh trong quá trình phát triển của lông cánh gà thịt (hình minh họa bên dưới). Và việc bổ sung quá nhiều leucine sẽ gây ra hiện tượng mọc lông bất thường, điều này đã được khắc phục bằng cách bổ sung một lượng dư leucine và isoleucine tương ứng.
Sắc tố lông cũng bị ảnh hưởng bởi dinh dưỡng. Lysine đã được xác định là axit amin chính liên quan đến sự hình thành sắc tố mặc dù sắc tố giảm cũng được thấy ở gà con được cho ăn khẩu phần thiếu phenylalanine và tyrosine, là tiền chất của melanin. Thiếu lysine cũng có thể gây mất sắc tố do ức chế hoạt động của enzyme tyrosinase, do đó ức chế sự hình thành

7 YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG ĂN VÀO VÀ KHẢ NĂNG TIÊU HOÁ CỦA TRÂU BÒ
Chăn nuôi trâu bò cho thịt và cho sữa đang được phát triển mạnh ở nước ta để cung cấp sản phẩm thịt, sữa và phụ phẩm chế biến cho nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi này như giống, thức ăn, dịch bệnh, môi trường chăn nuôi, các yếu tố quản trị chăm sóc… và thị trường. Vì vậy, nhà chăn nuôi cần phải đầu tư thích đáng để đạt được hiệu quả chăn nuôi tốt nhất.
1. Cho ăn quá nhiều
Bò sẽ bị ảnh hưởng xấu do cho ăn quá nhiều và thường xuất hiện các triệu chứng đầy hơi, khó tiêu, và trướng bụng cấp tính hoặc tác động mạnh vào dạ dày. Ngoài ra, các loài vi khuẩn như Clostridium welchii thường được tìm thấy trong chất chứa ở ruột của vật trong tình trạng cho ăn quá mức với sự sản sinh độc tố quá mức trong ruột, sự hấp thụ nó sẽ gây ra bệnh. Ở những bò sữa bị ăn quá mức khi được mong muốn sản xuất phá kỷ lục, những triệu chứng rối loạn tiêu hóa như vậy xuất hiện đột ngột làm sụt giảm sản lượng sữa. Thể keton trong máu tăng quá mức cũng có thể xảy ra ở vật nuôi được cho ăn nhiều vì chúng không thể hoàn thành quá trình oxy hóa chất béo trong cơ thể. Các sản phẩm oxy hóa không hoàn toàn (vật thể keton) tích tụ trong máu và ảnh hưởng xấu đến tình trạng cơ thể và chất lượng sữa.
2. Cho ăn thiếu
Sự thiếu hụt các vitamin và khoáng chất liên tục kéo dài thường dẫn đến sự phát triển bệnh được gọi là bệnh dinh dưỡng, có thể gây ra thiệt hại không thể khắc phục và cần phải tránh. Sự thiếu hụt các yếu tố khác, chẳng hạn như thiếu năng lượng hoặc protein vừa phải, có xu hướng kìm hãm sự phát triển nhưng không gây hại đặc biệt nếu không tiếp tục quá lâu, đặc biệt là nếu vật nuôi không mang thai và dự kiến sẽ không sản xuất hiệu quả. Tuy nhiên, ở những vật nhân giống, việc cho ăn thiếu làm giảm đáng kể hoạt động sinh sản bình thường của chúng. Ở vật cái bị thiếu ăn có thể không động dục bình thường, và nếu có thai, vật còn tơ có thể không mang được thai, hoặc nếu được sinh ra, có thể sẽ bị yếu và phát triển kém.
3. Chế biến thức ăn
Việc nghiền thường cải thiện lượng ăn vào và cũng có thể thêm các kim loại vào thức ăn. Ví dụ, người ta đã phát hiện ra rằng việc nghiền bột cam quýt bằng máy nghiền Wiley đã làm tăng đáng kể sắt, kẽm, đồng, natri và mangan dưới dạng kim loại nghiền mịn có thể được sử dụng tốt hơn cùng với các nguyên tố tương tự vốn có trong thức ăn. Trong một số trường hợp, việc nghiền có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng tiêu hóa nhưng ở một mức độ khác nhau tùy thuộc vào mức độ mịn. Tỷ lệ tiêu hóa chất khô của cỏ khô được nghiền thô, trung bình và rất mịn đã bị giảm lần lượt 3,2%, 7,6% và 15,1% so với cỏ khô được nuôi ăn ở dạng dài. Cỏ khô được nghiền thô không chỉ dễ tiêu hóa hơn mà còn ngon miệng hơn. Ngoài ra, nó cho phép thời gian nhai lại lâu hơn, lượng nước bọt được sinh ra lớn hơn và tỷ lệ acetate với propionate cao hơn trong dạ cỏ, nó đặc biệt quan trọng đối với bò sữa vì acetate là tiền chất chính của quá trình tổng hợp chất béo của sữa. Xử lý nhiệt của các thức ăn khác được nhận thấy là có lợi, đặc biệt trong các trường hợp các thành phần như hạt bông vải hoặc đậu nành được đưa vào tổ hợp trong khẩu phần. Nhiệt nóng các thành phần như vậy ở 140-150° C trong 2-3 phút dẫn đến sự phá hủy các chất độc và chất ức chế tự nhiên có trong thức ăn (gossypol tự do trong hạt bông vải và chất ức chế trypsin trong đậu nành) và do đó cải thiện giá trị dinh dưỡng của chú
4. Số lần cho ăn
Khi cho vật nuôi ăn 5-6 lần mỗi ngày, sẽ có độ pH ổn định trong dạ cỏ ở các mức trong khoảng 5,5 đến 5,8, nhưng khi cho ăn chỉ 1-2 lần mỗi ngày, trong trường hợp này, giá trị pH sẽ thay đổi từ khoảng 5.1 đến 7.1 trong cùng ngày. Với giá trị pH ổn định trong dạ cỏ, tỷ lệ tiêu hóa của chất xơ khẩu phần sẽ tăng lên do hoạt động của vi khuẩn trong dạ cỏ tăng lên dẫn đến mức năng lượng tăng cần thiết cho hoạt động đó (nồng độ ATP ở dạ cỏ cao gấp 2,5 lần ở số lần cho ăn cao so với số lần cho ăn thấp). Ngoài ra, việc số lần cho ăn cao còn làm giảm lượng ammonia tạo ra trong dạ cỏ sau quá trình tiêu hóa protein, cho thấy tỷ lệ hình thành protein có thể phân giải thấp và tỷ lệ protein không phân giải cao được sử dụng cho mục đích sản xuất. Tỷ lệ tăng của protein không phân giải có liên quan đến protein phân giải trong dạ cỏ có lẽ được cho là do tốc độ tăng của chất tiêu hóa chuyển qua dạ cỏ bằng việc số lần cho ăn cao, do đó không đủ thời gian cho sự phân rã.
5. Yếu tố môi trường
Một số yếu tố môi trường có thể ảnh hưởng đến lượng ăn vào ở vật nuôi, chẳng hạn như: stress nhiệt, mưa, tiếng ồn và độ cao.
6.Yếu tố vật nuôi
Một số yếu tố của vật nuôi có thể ảnh hưởng đến ăn vào ở động vật, chẳng hạn như tuổi, mang thai và mức độ vận động.
7. Các bệnh của cơ thể
Một nghiên cứu đã được thực hiện để định lượng giảm lượng ăn vào và tổn thất sản xuất sữa có liên quan đến các rối loạn sức khỏe ở bò sữa. Lượng ăn vào bị giảm 6,7-14,7 kg chất khô (DM) trong các tình trạng bệnh như tiêu chảy, viêm vú, thể keton trong máu cao và sốt sữa với mức giảm 1,94 kg sản lượng sữa cho mỗi kg DM ăn vào giảm. Ví dụ như sự xâm nhập của ký sinh trùng bên ngoài cũng có thể ảnh hưởng xấu đến tình trạng protein của động vật. Giả sử một vật nuôi bị nhiễm 200 con ve, sau đó hàng ngày, con vật có thể mất 200ml máu hoặc 40 g protein (giả sử máu có 20% protein). Sự gia tăng nhu cầu về 40 g protein có thể được đáp ứng bằng cách cho ăn 150 g bột hạt bông vải hoặc từ protein vi sinh vật được sinh ra trong dạ cỏ từ 250 g carbohydrate tiêu hóa. Do đó, các nhu cầu đối với acid amin tăng là do bệnh ký sinh trùng và gia súc sẽ bị mất cân bằng về các chất dinh dưỡng của chúng trong và đôi khi sau khi điều trị ký sinh trùng. Vật nuôi bị cạn kiệt protein có khả năng tạo ra nhiều nhiệt hơn và việc sử dụng năng lượng trao đổi (ME) sẽ bị giảm.
Các ảnh hưởng của nội ký sinh trên trâu bò sẽ thay đổi theo mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng cũng như tuổi và mức stress của vật nuôi. Các nôi ký sinh trùng ảnh hưởng đến lượng ăn vào của vật nuôi theo mức thay đổi khác nhau tùy thuộc vào tính nghiêm trọng của sự xâm nhập. Một mối quan hệ như vậy có thể được quy cho ảnh hưởng của ký sinh trùng đến sự vận động của dạ cỏ, pH dạ cỏ và hệ nội tiết hormone điều chỉnh sự thèm ăn và lượng ăn vào. Nội ký sinh trùng cũng ảnh hưởng đến tiêu hóa và sử dụng protein khẩu phần, do lượng ăn vào giảm và nhu cầu của vật nuôi sử dụng protein thức ăn như một nguồn năng lượng bù đắp.
8. Các chiến lược cải thiện
Những gì có thể được thực hiện để ngăn chặn việc ăn vào và sử dụng thức ăn bị giảm do tất cả các yếu tố này?
Cần tránh cho vật nuôi ăn quá nhiều vượt quá nhu cầu thực tế của nó. Ngoài sự tiết kiệm thức ăn, cho ăn quá nhiều còn ảnh hưởng xấu đến môi trường dạ cỏ và gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe và sản xuất. Việc cho ăn thiếu cũng nên tránh vì nó gây ra các bệnh về dinh dưỡng dẫn đến thiệt hại không thể khắc phục.
Thức ăn nên được xử lý đúng cách và được cung cấp nhiều lần mỗi ngày để duy trì chức năng dạ cỏ bình thường và cải thiện sự sử dụng.
Vật nuôi trong các hoạt động nuôi dưỡng bị nhốt nên được vận động một khoảng thời gian mỗi ngày để cải thiện khả năng tiêu hóa và sử dụng các chất dinh dưỡng của thức ăn. Cũng cần xem xét rằng phản ứng của vật đối với thức ăn có thể thay đổi bởi vì những thay đổi sinh lý liên quan đến tuổi và việc phân chia khẩu phần cần được điều chỉnh cho phù hợp.
Stress nhiệt ảnh hưởng xấu đến việc sử dụng thức ăn và sản xuất sữa và do đó, nên giảm bớt bằng các biện pháp vận dụng khéo vào khẩu phần (bổ sung chất đệm có thêm chất béo, protein và khoáng chất), và cũng bằng cách điều chỉnh môi trường tiểu khí hậu (bóng mát, vòi phun nước, v.v.).
Việc vật nuôi tiếp xúc với stress tiếng ồn cũng ảnh hưởng đến nhai lại và quá trình trao đổi chất. Trong trường hợp không thể tránh được stress tiếng ồn, việc bổ sung thức ăn có thêm chất chống oxy hóa có thể giúp giảm bớt các phản ứng trao đổi chất có hại liên quan đến tiếng ồn.
Vật nuôi phải luôn được duy trì trong tình trạng sức khỏe tốt. Chúng cũng cần được xử lý phòng ngừa nội ký sinh trùng bằng phương pháp tẩy giun và quản lý đồng cỏ thích hợp để giảm thiểu ảnh hưởng của các nội ký sinh trong việc sử dụng thức ăn và năng suất của vật nuôi. Tương tự, các ngoại ký sinh trùng cần được kiểm soát chặt chẽ thông qua việc sử dụng thuốc trừ côn trùng. Tuy nhiên, điều này cần được thực hiện dưới sự giám sát của bác sĩ thú y, người sẽ hướng dẫn việc xử lý tùy thuộc vào mức độ xâm nhiễm, độ tuổi và sức khỏe của vật nuôi.

GIÁ HEO HƠI HÔM NAY 27/8/2024: MỘT VÀI ĐỊA PHƯƠNG TĂNG NHẸ 1.000 ĐỒNG/KG
Ghi nhận giá heo hơi hôm nay 27/8 tăng rải rác 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 62.000 – 66.000 đồng/kg.
1. Giá heo hơi tại miền Bắc
Thị trường heo hơi tại miền Bắc, giá thu mua tương đối ổn định, giao dịch trong khoảng 64.000 –000 đồng/kg.
Theo đó, thương lái tại hầu hết các địa phương đang thu mua heo hơi với giá trung bình là 65.000 đồng/kg.
Riêng tỉnh Thái Nguyên tăng nhẹ 1.000 đồng/kg đưa giao dịch lên mức 66.000 đồng/kg.
2. Giá heo hơi tại miền Trung – Tây Nguyên
Theo ghi nhận, giá heo ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên tăng nhẹ000 đồng/kg, thu mua trong khoảng 62.000 – 65.000 đồng/kg.
Tại tỉnh Bình Địnhsau khi tăng giá, heo hơi đang được thu mua ở mức 62.000 đồng/kg, cùng với các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Đắk Lắk và Ninh Thuậ
Các địa phương còn lại duy trì giao dịch ổn định.
3. Giá heo hơi tại miền Nam
Giá giao dịch heo hơi ở khu vực miền Nam tăng nhẹ 1.000 đồng/kg,dao động trong khoảng 62.000 –000 đồng/kg.
Cụ thể, Đồng Tháp và Vũng Tàu lần lượt thu mua tại mức 64.000 đồng/kg và 65.000 đồng/kg.
Heo hơi tại các địa phương còn lại vẫn được giao dịch với giá không đổi.

CẦN CHÚ Ý NHỮNG GÌ KHI TÁI ĐÀN GIA SÚC VÀO CUỐI NĂM
Trong thời gian qua, dịch bệnh trên đàn vật nuôi vẫn diễn biến phức tạp, các bệnh truyền nhiễm có nguy cơ bùng phát trở lại nhất là ở những địa phương còn chăn nuôi nhỏ lẻ, tỷ lệ tiêm phòng thấp, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Hiện nay, người chăn nuôi đang tái đàn phục vụ nhu cầu cầu thực phẩm cuối năm. Trong điều kiện dịch bệnh phức tạp như hiện nay người chăn nuôi thực hiện tốt một số nội dung sau:
1. Đối với con giống
Khi mua con giống, cần đến những cơ sở con giống bảo đảm an toàn dịch bệnh, nguồn gốc rõ ràng, được tiêm phòng đầy đủ các loại vaccine. Tuyệt đối không mua giống ở nơi vừa xảy ra dị Trong quá trình vận chuyển, cần bố trí phương tiện vận chuyển chuyên dụng. Trước và sau khi vận chuyển đàn giống, phương tiện cần được khử trùng tuyệt đối. Con giống nhập về thực hiện nuôi cách ly ít nhất 2 tuần để theo dõi tình trạng sức khỏe. Ghi chép đầy đủ các thông tin về đàn giống vào sổ chăn nuôi, như ngày tháng nhập, địa chỉ nơi cấp giống, lịch tiêm phòng…
2. Đối với thức ăn
Nguồn thức ăn nguyên liệu phục vụ cho chăn nuôi được kiểm soát tốt bảo đảm có chất lượng, không nhiễm mầm bệ Không cho ăn thức ăn thừa của người khi chưa được nấu chín. Khi nhập thức ăn và nguyên liệu cần bảo quản tại kho chứa riêng, không để vào trong các dãy chuồng nuôi.
3. Đối với chuồng nuôi
Chuồng nuôi cần có hệ thống hàng rào, có ranh giới tách biệt giữa khu chăn nuôi và khu sinh hoạt của con người, không nuôi chung nhiều loại cùng một lú Thường xuyên kiểm soát nghiêm ngặt người và phương tiện ra vào chuồng.
4. Vệ sinh làm sạch và sát trùng
Hằng ngày, vệ sinh trong và ngoài chuồng nuôi; thu gom, xử lý toàn bộ rác, chất thải để xử lý định kỳ 1 tuần/1 lần. Sử dụng các sản phẩm sát trùng như KLORTAB viên cho 10 lít nước hoặc DESINFECT O, DESINFECCT GLUTAR ACTIVE. Khi có khách đến tham quan hoặc lái buôn ra vào trại phải thực hiện khử trùng người, phương tiện và chuồng nuôi. Ghi chép đầy đủ các thông tin liên quan đến việc khử trùng vào sổ để theo dõi, kiểm tra.
5. Đối với chuồng nuôi vừa xảy ra dịch bệnh
Tiến hành quét dọn, thu gom toàn bộ rác, chất thải chăn nuôi, phân, chất độn chuồng và tiêu hủy bằng cách đốt, vệ sinh cơ học chuồng nuôi, khuôn viên trại; phun thuốc sát trùng 1 lần/ngày bằng các loại hóa chất như Benkocid, Omnicide, Han Iodine, Virkon, Povi dine theo hướng dẫn của nhà sản xuấ Rải vôi bột hoặc phun dung dịch vôi 1% lên toàn bộ bề mặt chuồng trại như nền chuồng, lối đi, hành lang, cống rãnh, đường vào trại… bảo đảm bề mặt phải được phủ trắng vôi các dụng cụ chăn nuôi, quần áo bảo hộ sử dụng 1 lần nên tiêu hủy bằng cách đốt.
Các bụi, cỏ dại trong trại, khu vực xung quanh phải được chặt bỏ, đốt cháy hoàn toàn. Cần nạo vét, khơi thông cống rãnh, dùng vôi bột rải lên toàn bộ bề mặt cống rãnh chủ động các biện pháp diệt ruồi muỗi, diệt chuột và các côn trùng khác.
6. Xử lý chất thải
Cần có biện pháp thu gom và xử lý chất thải phù hợp với điều kiện chăn nuôi bằng các giải pháp như sử dụng hệ thống biogas, ủ phân vi sinh hoặc dùng đệm lót sinh họ Khi có vật nuôi chết, tiêu hủy bằng phương pháp đốt cháy hoàn toàn hoặc chôn rải vôi bột, khử trùng theo đúng quy định thú y.
7. Định kỳ tiêm phòng vaccine và chủ động giám sát chặt chẽ tại cơ sở chăn nuôi
Khi có biểu hiện vật nuôi ốm chết không rõ nguyên nhân, bà con báo ngay cho cơ quan thú y và chính quyền địa phương phối hợp xử lý tìm nguyên nhân gây bệnh.

TÁC ĐỘNG CỦA MẦM BỆNH TỪ NGUỒN THỨC ĂN ĐẾN SẢN LƯỢNG TRỨNG CỦA GÀ ĐẺ
Kiểm soát các tác nhân gây bệnh từ nguồn thức ăn là quan trọng để duy trì năng suất đàn và thúc đẩy an toàn thực phẩm. Các chiến lược hiệu quả làm giảm tỷ lệ mắc các bệnh hạn chế hiệu suất như viêm ruột, cuối cùng là hạn chế tỷ lệ tử vong, duy trì tính đồng nhất của đàn và bảo vệ chất lượng trứng.
Sản xuất trứng thương mại đã có những bước tiến đáng kể trong những thập kỷ gần đây, được thúc đẩy bởi các yếu tố từ động lực kinh tế đến sở thích thay đổi của người tiêu dùng. Với những tiến bộ trong công nghệ và thực hành quản lý, ngành công nghiệp đã chứng kiến những cải thiện về hiệu quả cũng như những thách thức mới, đặc biệt là những thách thức liên quan đến sức khỏe và phúc lợi của gà mái đẻ. Nhiều thay đổi trong số này đã dẫn đến sự tập trung nhiều hơn vào cách các tác nhân gây bệnh từ nguồn thức ăn tác động đến sản xuất trứng gà đẻ.
1. Chất lượng thức ăn và sức khỏe đường ruột ảnh hưởng đến năng suất của gà đẻ
Đường ruột khỏe mạnh rất quan trọng đối với quá trình chuyển đổi thức ăn và hấp thụ chất dinh dưỡng hiệu quả. Sự gián đoạn của hệ vi sinh vật có thể dẫn đến các bệnh hạn chế hiệu suất như viêm ruột, làm suy yếu sự phát triển của nhung mao, làm giảm khả năng hấp thụ và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn.
Hệ vi sinh vật đường ruột của một lớp có trách nhiệm duy trì sức khỏe, năng suất và sức khỏe tổng thể. Bao gồm hàng nghìn tỷ vi sinh vật, bao gồm vi khuẩn, nấm và vi-rút, hệ vi sinh vật tương tác phức tạp với vật chủ, điều chỉnh quá trình hấp thụ chất dinh dưỡng, quá trình trao đổi chất và phản ứng miễn dịch. Sự gián đoạn trong thành phần hệ vi sinh vật, được gọi là loạn khuẩn, có thể gây ra nhiều rối loạn sức khỏe khác nhau, bao gồm viêm ruột, giảm chuyển đổi thức ăn và tăng khả năng mắc các bệnh truyền nhiễm.
Chất lượng thức ăn đóng vai trò then chốt trong việc định hình cấu trúc và chức năng của hệ vi sinh vật đường ruột ở gia cầm. Thức ăn, với tải lượng vi khuẩn thay đổi, đóng vai trò là vật trung gian đã được chứng minh cho các tác nhân gây bệnh do vi khuẩn và vi-rút. Sự hiện diện của tải lượng vi khuẩn cao trong thức ăn tương quan với sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh. Phân tích sâu rộng hàng nghìn mẫu thức ăn và thành phần thức ăn được thu thập trên toàn cầu và được Phòng thí nghiệm Anitox kiểm tra đã chỉ ra rằng thức ăn là nơi chứa nhiều loại vi khuẩn khác nhau.
Không giống như các đường lây truyền khác, thức ăn được sản xuất tập trung, phân phối khắp các hoạt động nuôi gà đẻ thương mại và được tiêu thụ hàng ngày. Nhiều tác nhân gây bệnh cho gia cầm, bao gồm vi khuẩn, vi-rút và nấm, đã được truy nguyên từ nguồn thức ăn. Nguyên liệu thô bị ô nhiễm, đặc biệt là trong quá trình thu hoạch ướt, là nơi sinh sôi của nấm mốc, vi khuẩn và độc tố nấm mốc, tìm đường vào thức ăn thành phẩm. Các sản phẩm phụ từ động vật và các thành phần thức ăn khác chứa nhiều vi khuẩn, làm trầm trọng thêm nguy cơ. Không giống như các chế độ ăn khác của gia cầm, thức ăn nghiền không tiếp xúc với nhiệt thông thường thông qua quá trình viên và vẫn đặc biệt dễ bị nhiễm mầm bệnh.
2. Vi khuẩn Salmonella
Salmonella là tác nhân gây bệnh trong thức ăn chăn nuôi được nghiên cứu thường xuyên nhất, với hơn 500 ấn phẩm hiện có. Ví dụ, một nghiên cứu giám sát được tiến hành tại Hoa Kỳ từ năm 2002 đến năm 2009 của Livà cộng sự (2012) đã ghi nhận tỷ lệ nhiễm Salmonella là 12,5% trong các mẫu thức ăn chăn nuôi và thành phần thức ăn chăn nuôi lấy từ các cơ sở sản xuấ Ngoài ra, Kukier và cộng sự (2013) đã tiến hành một cuộc khảo sát cho thấy sự hiện diện của các tác nhân gây bệnh trong nhiều thành phần thức ăn chăn nuôi khác nhau, cho thấy 0,7% protein có nguồn gốc từ động vật, 2,2% bột hạt có dầu và 1,3% mẫu ngũ cốc có kết quả xét nghiệm dương tính với Salmonella. Morita và cộng sự (2007) và Wierup và cộng sự (2010) cũng xác định được Salmonella trong các mẫu bột đậu nành và bột hạt cải dầu ở các tỷ lệ khác nhau. Trong một báo cáo gần đây của Munoz và cộng sự (2021), một nghiên cứu kéo dài một năm trên năm nhà máy đã tiết lộ tỷ lệ nhiễm Clostridium spp. cao và sự hiện diện của E. coli trong các thành phần lấy mẫu và thức ăn chăn nuôi thành phẩm.
Sự phá vỡ hệ vi sinh vật do các tác nhân gây bệnh trong thức ăn như Clostridia có thể làm tăng nguy cơ viêm ruột trong các hệ thống sản xuất gà đẻ. Các đợt bùng phát viêm ruột trong đàn gà đẻ thường biểu hiện theo hai cách quan trọng, phá vỡ sự đồng đều của đàn trước khi bắt đầu đẻ và làm giảm năng suất sau 18 tuần tuổi. Trọng lượng cơ thể gà đẻ khi trưởng thành đóng vai trò quan trọng trong việc xác định trọng lượng trứng và tổng sản lượng trứng và phần lớn bị ảnh hưởng bởi các biện pháp quản lý và dinh dưỡng. Các trường hợp nhẹ có thể làm tăng tỷ lệ chuyển đổi thức ăn trong khi các bệnh nghiêm trọng, như hoại tử tá tràng khu trú, có thể làm giảm sản lượng tới 10% và ảnh hưởng đáng kể đến kích thước trứng.
3. Vệ sinh thức ăn hỗ trợ năng suất gà đẻ
Để tối ưu hóa sản lượng trứng, cần phải có nỗ lực chung để đảm bảo thức ăn sạch, không có mầm bệnh. Bằng cách giảm lượng vi khuẩn trong thức ăn và thành phần, người chăn nuôi gà đẻ có thể tăng cường sức khỏe đường ruột, tăng cường chuyển đổi năng lượng và bảo vệ năng suất đàn khỏi bệnh viêm ruột và các bệnh hạn chế hiệu suất khác.
Việc kết hợp các giao thức vệ sinh thức ăn vào quá trình sản xuất gà đẻ không chỉ kiểm soát lượng vi khuẩn xâm nhập mà còn thúc đẩy sự phát triển của ruột, thúc đẩy hệ vi sinh cân bằng và tăng cường hiệu suất và sức khỏe tổng thể. Dữ liệu ban đầu từ các nghiên cứu đang tiến hành cho thấy các phương pháp vệ sinh thức ăn hiệu quả có thể ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn Salmonella vào gà mái thông qua thức ăn, do đó tăng cường sản lượng trứng trong thời kỳ đẻ trứng cao điểm. Hơn nữa, vệ sinh thức ăn ảnh hưởng đến thành phần hệ vi sinh, tạo nền tảng cho những con gia cầm khỏe mạnh hơn trong suốt chu kỳ sản xuất.
Trong bối cảnh nhu cầu ngày càng cao của ngành sản xuất gia cầm hiện đại, nơi mà hiệu quả, an toàn và dinh dưỡng có tầm quan trọng sống còn, vệ sinh thức ăn trở thành một công cụ thiết yếu để kiểm soát mầm bệnh từ nguồn thức ăn. Đảm bảo thức ăn sạch tại điểm tiêu thụ đóng vai trò như một biện pháp phòng vệ chống lại sự phổ biến của mầm bệnh trong các hệ thống sản xuất sống, thúc đẩy sức khỏe đường ruột, chuyển đổi năng lượng hiệu quả và cuối cùng là giảm tỷ lệ mắc các bệnh hạn chế hiệu suất, tỷ lệ tử vong của gia cầm và nhiễm bẩn trứng trong các hệ thống sản xuất gà đẻ.

NHẬP KHẨU THỊT HEO TĂNG MẠNH, NGÀNH CHĂN NUÔI LO MẤT THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
Nhập khẩu thịt heo vào Việt Nam đang có xu hướng tăng lên. Mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng nhiều chuyên gia và doanh nghiệp lo ngại về sức ép của thịt heo nhập khẩu đối với ngành chăn nuôi nội địa trong tương lai.
1. Nhập ngoại có xu hướng tăng
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2023, Việt Nam nhập khẩu 716.890 tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 1,43 tỷ USD, tăng 5,4% về lượng, nhưng giảm 3,9% về trị giá so với năm 2022; chủ yếu nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt từ 57 thị trường trên thế giới. Trong các chủng loại thịt nhập khẩu, thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm phần lớn và được nhập khẩu từ 30 thị trường, chủ yếu là Nga, chiếm 40,67% trong tổng lượng nhập khẩu của cả nước; tiếp theo là Brazil chiếm 35,43%; Đức chiếm 5,7%; Canađa chiếm 3,01%; Mỹ chiếm 2,54% và một số nước khác (Tây Ban Nha, Ba Lan…).
Năm 2021, Việt Nam nhập khẩu 167.366 tấn thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh và 123.452 tấn phụ phẩm ăn được từ heo. Năm 2022, Việt Nam nhập khẩu 114.123 tấn thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh và 69.316 tấn phụ phẩm ăn được từ lợn, trị giá 249,35 triệu USD, giảm 29,8% về lượng và giảm 33,6% về trị giá so với năm 2021. Năm 2023, Việt Nam nhập khẩu 112,6 nghìn tấn thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh và 122,5 tấn phụ phẩm ăn được từ lợn, trị giá 279,77 triệu USD, tăng 0,1% về lượng và tăng 12,2% về trị giá so với năm 2022.
Thống kê nhập khẩu thịt lợn trong vài năm gần đây. Nguồn: TCHQ
Trong 6 tháng đầu năm 2024, nhập khẩu thịt các loại đạt hơn 447,2 nghìn tấn, trị giá hơn 860,9 triệu USD, tăng 33,6% về lượng và tăng 24,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Riêng nhập khẩu thịt lợn trong 6 tháng đầu năm nay đạt hơn 128,7 nghìn tấn, trị giá hơn 203 triệu USD.
Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng với thế giới thông qua 16 FTA đã được ký kết, trong đó, có các hiệp định thương mại thế hệ mới như CPTTP, EVFTA đang được áp dụng theo lộ trình giảm thuế như đã thỏa thuận; ngoài ra, nước ta cũng ký kết các hiệp định song phương với nhiều nước có nền chăn nuôi tiến tiến. Do vậy, việc sản phẩm chăn nuôi nói chung và sản phẩm thịt lợn nói riêng của nước ta sẽ gặp khó khăn hơn khi chúng ta buộc phải mở cửa cho thực phẩm nhập khẩu từ Mỹ, Brazil, Nga, Ấn Độ và Đức và sản phẩm nhập khẩu sẽ cạnh tranh mạnh với sản phẩm trong nước.
2. Sức ép lên doanh nghiệp
Tại hội nghị thúc đẩy chăn nuôi lợn bền vững diễn ra ngày 14/8 vừa qua, ông Nguyễn Văn Tuế, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dabaco chia sẻ, hiện tại các doanh nghiệp chăn nuôi trong nước đang đẩy mạnh tăng đàn nhằm tận dụng giá lợn hơi thuận lợi. Điều này có thể tạo ra áp lực về nguồn cung tăng lên đối với giá cả trong những tháng cuối năm.
Do vậy, ông Tuế đề xuất nên hạn chế nhập khẩu thịt để giảm bớt sự tăng lên về nguồn cung. “Trong nước đã sản xuất được thì Nhà nước nên có hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu. Chúng ta chỉ nên cho phép nhập khẩu chính phẩm còn phụ phẩm thì không. Ngoài ra, doanh nghiệp chỉ được nhập khẩu những sản phẩm có hạn sử dụng lâu dài, tránh nhập khẩu sản phẩm có hạn ngắn, giá rẻ, gây áp lực lên giá trong nước”, ông Tuế nêu rõ.
Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dabaco Nguyễn Văn Tuế cũng không khỏi lo ngại khi tương lai thuế nhập khẩu thịt lợn giảm xuống, áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước sẽ tăng lên. “Khi thịt giá rẻ của thể giới xâm nhập vào thị trường Việt Nam, bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải tái cơ cấu để nâng cao năng suất và chất lượng nhằm hạ giá thành nuôi. Hiện chúng tôi đã xây dựng hệ thống giống tốt với những con giống hạt nhân quy mô lớn, năng suất tương đương với các nước trên thế giới, được định hướng cung cấp cho các trang trại nội bộ và các hộ nuôi liên kết”, ông Tuế chia sẻ thêm.
Trong khi đó, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Việt Nam, lo lắng “Nếu không cẩn trọng, một vài năm nữa, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia nhập khẩu thịt lợn. Bởi năm 2027, thuế nhập khẩu mặt hàng này sẽ giảm từ 15% xuống còn 0%, chưa kể đến việc chúng ta vẫn chưa kiểm soát hoàn toàn được lượng nhập khẩu qua đường tiểu ngạch”.
3. Bài toán giảm chi phí chăn nuôi để cạnh tranh với heo nhập khẩu
Để cạnh tranh với thịt heo nhập khẩu trong tương lai và tránh viễn cảnh Việt Nam trở thành nước nhập khẩu, ngành chăn nuôi cần giảm chi phí. Tuy nhiên, hiện nay bài toán về chi phí nuôi vẫn đang là vấn đề nan giải.
Tại Việt Nam, chi phí chăn nuôi vẫn còn cao so với thế giới do nguyên liệu để sản xuất thức ăn chăn nuôi vẫn còn phụ thuộc vào nhập khẩu.
Theo Cục Chăn nuôi, nước ta hiện vẫn chưa hình thành được vùng sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước để giảm giá thành chăn nuôi.Hằng năm, trong nước chỉ sản xuất được 35% nguyên liệu (để sản xuất khoảng 20 triệu tấn thức ăn chăn nuôi công nghiệp), còn lại 65% phải nhập khẩu.
Ngoài thức ăn chăn nuôi, Việt Nam cũng còn phụ thuộc vào nguồn con giống chất lượng nhập khẩu. những năm gần đây việc nhập khẩu giống vật nuôi có chiều hướng giảm, nhưng chưa nhiều.
Một số giống có năng suất, chất lượng bằng và cao hơn mức trung bình của thế giới, như Landrace, Yorkshire, Duroc có năng suất cao (chủ yếu là cấp giống cụ kỵ) được nhập vào Việt Nam hàng năm để làm mới nguồn gen di truyền đàn nái ngoại trong nước, nâng cao năng suất, chất lượng con giống.
Cũng giống như nhiều nước, Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nguồn giống cụ kỵ, ông bà của các tập đoàn giống heo đa quốc gia để sản xuất cấp giống bố mẹ để sản xuất. Hiện chưa có giống heo ngoại nào do nước ta chọn tạo cạnh tranh được với các giống nhập ngoại.
“Thị trường rất mở, nếu sản phẩm trong nước không cạnh tranh được về cả, chất lượng thì chắc chắn thịt heo nhập khẩu sẽ tràn vào. Thậm chí, giá heo hơi nhiều nước còn thấp hơn so với giá thịt đã xẻ và phân loại của Việt Nam”, ông Nguyễn Đức Trọng, Nguyên Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi trao đổi với chúng tôi.
Ông nhận định mặc dù thịt heo nhập khẩu hiện chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng nếu không ngành chăn nuôi không cải thiện, trở nên bài bản hơn sẽ có thể đánh mất thị phần trong nước. Giải pháp trước mắt là tăng hiệu quả chăn nuôi bằng cách tận dụng nguồn thức ăn tại chỗ, đẩy mạnh kinh tế tuần hoàn.
Trao đổi với báo chí bên lề hội nghị chăn nuôi heo bền vững, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến, thời gian tới, ngành chăn nuôi đẩy mạnh tận dụng một phần ngô đậu, đậu tương,…để làm thức ăn chăn nuôi, đặc biệt là ngô sinh khối.
“Ngô của Việt Nam chất lượng rất tốt nhưng năng suất còn hạn chế. Năng suất 6 -7 tấn/ha thấp hơn so với quốc tế là 12 tấn/ha. Diện tích những năm trước đây đạt trên 900.000 ha nhưng hiện chỉ còn 600.000 ha. Thời gian tới, Bộ NN&PTNT sẽ phối hợp với De Heus trồng thí điểm ngô chất lượng cao ở Tây Nguyên, nhằm cải thiện năng suất nguyên liệu này”, ông Tiến nói.

THƯƠNG MẠI GIA CẦM NỬA CUỐI NĂM: NGUY VÀ CƠ
Các thị trường xuất khẩu gia cầm toàn cầu vẫn tồn tại nhiều thách thức, tuy nhiên, thương mại gia cầm có thể tăng gấp đôi so với kết quả đạt được vào năm 2023.
1. Thương mại ấm dần
Thương mại ngành thịt gia cầm toàn cầu được dự kiến mức tăng trưởng 1 – 2% vào nửa cuối năm 2024. Tín hiệu tích cực này cho thấy các điều kiện của nền kinh tế toàn cầu đang dần được cải thiện với mức tiêu thụ thịt gia cầm tăng cao hơn khi nền kinh tế phát triển và lạm phát được kìm hã
Tuy nhiên, theo dự báo mới đây của Quỹ Tiền tệ quốc tế, nền kinh tế toàn cầu sẽ tiếp tục suy thoái ít nhất đến cuối năm 2025. Do đó, các nhà xuất khẩu gia cầm sẽ được hưởng lợi do chi phí sản xuất thấp hơn và triển vọng chung của toàn ngành cải thiện; tuy nhiên, họ cần phải lưu ý đến những thách thức tiềm ẩn làm tăng chi phí vận chuyển và xáo trộn dòng chảy thương mại.
Trong Báo cáo Gia cầm toàn cầu theo quý mới nhất, Rabobank lưu ý các điều kiện thị trường thịt gia cầm đang được cải thiện. Cụ thể, thương mại gia cầm tại Nhật Bản, châu Âu, Mexico và Ả Rập Saudi đang sôi động dần. Diễn biến tích cực này sẽ trở thành đòn bẩy tăng trưởng xuất khẩu gia cầm trong những tháng tới. Ngoài ra, Rabobank cũng ghi nhận nhu cầu nhập khẩu thịt ở Nam Phi, Hàn Quốc và Malaysia đang có xu hướng tăng cao.
Theo báo cáo hồi đầu năm của Cơ quan dịch vụ Nông nghiệp nước ngoài (FAS), thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), khối lượng xuất khẩu thịt gà trong năm 2024 có thể đạt 103,3 triệu tấn. Tuy nhiên, FAS cũng dự báo nhu cầu nhập khẩu thịt gà của thị trường Nhật Bản, Ả Rập Saudi và Hàn Quốc có thể giảm nhẹ so với dự báo trước đó.
2. Sôi động cuối năm
Các chuyên gia dự báo, thương mại gia cầm toàn cầu trong quý cuối cùng của năm 2024 có thể tăng 1%, riêng ngành hàng thịt gia cầm có thể cán mốc kỷ lục. Nhiều tín hiệu lạc quan cho thấy dự báo này hoàn toàn có cơ sở, cụ thể điều kiện thị trường đang dần cải thiện khi nhu cầu về thịt gà chế biến tăng vọt 10% so với cùng năm ngoái, đạt 305.000 tấn.
Tuy nhiên, phía sau bức tranh tổng thể đầy tích cực, thì những mảnh ghép riêng lẻ – những nước xuất khẩu gia cầm chủ chốt gồm Mỹ, Brazil và Thái Lan vẫn phải đối mặt tình trạng dư thừa nguồn cung tại thị trường nội địa, và nhu cầu suy yếu tại các thị trường nhập khẩ Trước những thách thức này, Brazil, nước xuất khẩu thịt gà lớn nhất thế giới, vẫn dự kiến xuất khẩu tăng 10% so với cùng kỳ trong quý cuối cùng của năm 2024. Cơ sở để Brazil tự tin đó là nhu cầu nhập khẩu từ các đối tác gồm Nhật Bản, Mexico và Trung Đông vẫn duy trì tốt.
Giao dịch thương mại gia cầm của Trung Quốc và Thái Lan cũng sôi động hơn, bất chấp điều kiện thị trường khó khăn. Ngược lại, xuất khẩu gia cầm của Mỹ giảm 4% trong giai đoạn này, chủ yếu do lượng hàng sang Trung Quốc giảm 50%, đồng thời doanh số bán hàng sang Cuba và Angola cũng thấp hơn. FAS báo cáo nhu cầu đối với thịt gà Mỹ từ hai thị trường này dự kiến tiếp tục giảm trong nửa cuối năm nay.
Thương mại gia cầm toàn cầu năm 2023 chỉ tăng 1%, đạt 144 triệu tấn bởi hai yếu tố: người tiêu dùng đặc biệt chú trọng đến giá và nguồn cung thịt gà giá rẻ thiếu hụt. Tuy nhiên, tăng trưởng trong năm nay có thể đạt 2% do người tiêu dùng ít tập trung vào yếu tố giá cả; chi phí đầu vào thấp hơn, đặc biệt là thức ăn chăn nuôi; thu nhập tăng và lạm phát giảm khiến giá thịt gà phải chăng hơn.
3. Vẫn còn trở ngại
Rào cản rõ rệt nhất đối với tăng trưởng thương mại gia cầm toàn cầu là sự gián đoạn vận chuyển ở Trung Đông. Ngoài ra, tình hình địa chính trị bất ổn ở Biển Đen và mực nước kênh đào Panama sụt giảm cũng là những vấn đề đáng lo ngại. Việc thay đổi tuyến đường biển vận chuyển hàng hóa do những khó khăn kể trên đã tác động trực tiếp và gián tiếp lên chi phí thương mại gia cầm. Cụ thể, cước vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu đắt đỏ hơn; chi phí đầu vào gồm thức ăn, thuốc,… phục vụ chăn nuôi gia cầm cũng tăng cao hơn. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, những khó khăn về vận tải quốc tế cũng mang lại khía cạnh tích cực, đó là thúc đẩy thương mại gia cầm nội vùng sôi động hơn.
Dịch bệnh gia cầm vẫn là thách thức cố hữu. Dịch cúm gia cầm đang có nguy cơ lây lan sang Nam bán cầu, trong đó có nước xuất khẩu chủ chốt như Brazil, khiến dòng chảy thương mại có thể bị xáo trộn. Tuy nhiên, thị trường gia cầm toàn cầu năm 2024 nhìn chung diễn biến tích cực hơn nhờ nhu cầu tiêu thụ đang tăng dần. Đáng chú ý, lạm phát ở nhiều khu vực đã được kìm hãm, cộng với chi phí sản xuất gia cầm thấp hơn năm ngoái, biến mặt hàng này trở thành loại thực phẩm vừa túi tiền người tiêu dùng hơn.

TÁC ĐỘNG CỦA STRESS OXY HOÁ
Chăn nuôi thâm canh khiến động vật phải tiếp xúc với nhiều yếu tố gây căng thẳng khác nhau trong suốt vòng đời của chúng như căng thẳng do nhiệt, căng thẳng cai sữa, độc tố, mầm bệnh và chế độ ăn không cân bằng. Quá trình đóng vai trò trung tâm trong tất cả các tình huống này là căng thẳng oxy hóa. Căng thẳng oxy hóa là do các loài oxy phản ứng (ROS) gây ra, có thể có nguồn gốc từ các nguồn ngoại sinh và nội sinh. ROS là các phân tử có khả năng phản ứng cao có khả năng gây tổn hại đến các đại phân tử như lipid, protein và DNA. Quá trình oxy hóa các thành phần này gây tổn thương tế bào đến mức dẫn đến chết tế bào và cuối cùng là tổn thương mô.
1. Viêm
- Các loài oxy phản ứng khởi tạo một con đường truyền tín hiệu nội bào gây viêm và sản xuất các cytokine tiền viêm. Tùy thuộc vào nồng độ ROS mà tình trạng viêm được điều hòa hoặc cường điệu. Mặt khác, ROS là một phần của quá trình viêm để chống lại các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm và góp phần vào khả năng phòng vệ miễn dịch bình thường của động vật. Thật vậy, tại vị trí bị thương và bị viêm, các tế bào miễn dịch sản xuất và giải phóng một lượng lớn ROS để tiêu diệt tác nhân gây bệnh, cuối cùng dẫn đến stress oxy hóa. Do đó, viêm và stress oxy hóa là các sự kiện bệnh sinh có liên quan chặt chẽ với nhau. Một trong số chúng có thể xuất hiện trước hoặc sau cái kia, nhưng khi một trong số chúng xuất hiện thì cái kia có nhiều khả năng xuất hiện sau và làm trầm trọng thêm cái đầu tiên. Cả hai quá trình đều gây tổn thương tế bào và mô và tham gia vào quá trình sinh bệnh của nhiều bệnh mãn tính.
2. Giảm sức khỏe đường ruột
- Mặc dù có hàng rào bảo vệ do niêm mạc tạo ra, đường tiêu hóa vẫn dễ bị tấn công bởi ROS vì nó chứa nhiều nguồn ROS tiềm ẩn. Các loài oxy phản ứng có thể làm tổn hại hàng rào ruột bằng cách phá vỡ các protein liên kết chặt chẽ dẫn đến tăng tính thấm của ruột và tạo điều kiện cho sự vận chuyển độc tố ( nội độc tố, độc tố nấm mốc …) và các tác nhân gây bệnh. Ngoài ra, động vật trải qua stress oxy hóa biểu hiện chiều cao nhung mao và độ sâu hốc giảm, làm giảm bề mặt hấp thụ chất dinh dưỡng.
3. Tổn thương gan và thận
- Gan và thận là những cơ quan rất dễ bị tổn thương do ROS gây ra. Giống như ruột, gan và thận có các mối nối chặt tạo thành các rào cản bị tổn thương trong quá trình stress oxy hóa. Nhiều loại tế bào gan rất dễ bị stress oxy hóa, dẫn đến thay đổi chức năng tế bào gan, viêm và xơ hóa. Stress oxy hóa không chỉ gây ra tổn thương tế bào gan bằng cách gây ra sự thay đổi không thể phục hồi đối với lipid, protein và DNA mà quan trọng hơn là điều chỉnh các con đường như phiên mã gen, biểu hiện protein, apoptosis tế bào và phục hồi tế bào gan. Các con đường này điều chỉnh các quá trình quan trọng trong gan và kiểm soát các chức năng sinh học bình thường. Đối với thận, ROS xâm nhập vào mô thận và làm suy thoái các cấu trúc chính trong thận liên quan đến quá trình bài tiết nhiều loại chất thải do quá trình chuyển hóa tế bào tạo ra vào nước tiểu.
4. Giảm hiệu suất
- Căng thẳng oxy hóa ảnh hưởng đáng kể đến hiệu suất của động vật. Viêm gây ra, cùng với việc sửa chữa các mô bị tổn thương đòi hỏi năng lượng và chuyển hướng chất dinh dưỡng ra khỏi quá trình sản xuất, dẫn đến tổn thất kinh tế cho người nông dân. Hơn nữa, các cytokine gây viêm ức chế sự thèm ăn dẫn đến giảm hấp thụ chất dinh dưỡng cho mục đích sản xuất.

XUẤT KHẨU THỊT LỢN CỦA NGA SANG TRUNG QUỐC GẶP KHÓ KHĂN
Kế hoạch vận chuyển số lượng lớn thịt lợn từ Nga sang Trung Quốc có lẽ không dễ dàng như dự kiến.
- Do lệnh trừng phạt mới của Hoa Kỳ, các nhà xuất khẩu hàng hóa của Nga ngày càng phàn nàn về những khó khăn trong việc thu tiền thanh toán cho hàng hóa đã giao cho khách hàng Trung Quốc. Vấn đề này không có lợi cho kế hoạch tăng xuất khẩu thịt lợn sang Trung Quốc của Nga vào nửa cuối năm 2024.
- Những khó khăn này là hậu quả của mối đe dọa từ chính quyền Hoa Kỳ từ tháng 12 năm 2023. Các lệnh trừng phạt thứ cấp đối với các ngân hàng và tổ chức tạo điều kiện cho hoạt động thương mại của Nga với các nước thứ 3 được cho là sẽ tiếp theo.
1. Kiểm tra thanh toán
- Do đó, các ngân hàng Trung Quốc đã bắt đầu xem xét kỹ lưỡng mọi khoản thanh toán đến và đi từ Nga, dẫn đến việc các khoản thanh toán bằng đồng nhân dân tệ Trung Quốc thường bị đóng băng trong nhiều tuần nếu không bị từ chối. Các báo cáo thỉnh thoảng chỉ ra rằng vấn đề thanh toán trở nên tồi tệ hơn sau khi Hoa Kỳ mở rộng tiêu chí áp dụng lệnh trừng phạt vào tháng 6.
- Bloomberg gần đây đưa tin, trích dẫn một nguồn tin trong ngành muốn giấu tên, một số người Trung Quốc mua hàng nông sản của Nga cũng đang gặp vấn đề về thanh toán.
- Các vấn đề đã và đang ảnh hưởng đến hoạt động thương mại chung của Nga với Trung Quốc. - Ví dụ, xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga vào tháng 3 năm 2024 đã giảm 20% xuống còn 21,3 tỷ đô la Mỹ, với động lực vẫn tiêu cực vào tháng 4. Mặt khác, có những dấu hiệu cho thấy dòng chảy thương mại đã phục hồi một chút vào tháng 6 và tháng 7. Các nhà phân tích địa phương cảnh báo rằng vẫn còn quá sớm để đưa ra bất kỳ kết luận nào.
2. Hy vọng xuất khẩu trên 60.000 tấn thịt lợn
- Nga hy vọng sẽ xuất khẩu khoảng 60.000 đến 70.000 tấn thịt lợn sang Trung Quốc vào năm 2024. Số lượng này đã được Yuri Kovalev, Tổng giám đốc điều hành Liên minh sản xuất thịt lợn Nga, chia sẻ trong một cuộc họp báo tại thủ đô Moscow của Nga.
- Ông cho biết xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ mới bắt đầu tăng. Trong nửa đầu năm 2024, gần 10.000 tấn thịt lợn Nga đã được vận chuyển đến thị trường Trung Quốc. Việc giao hàng chỉ diễn ra trong 2-3 tháng qua và chỉ một số ít công ty được phép bán thịt lợn cho Trung Quốc, ông cho biết.
3. Động lực hỗn hợp
- Tổng cộng, xuất khẩu thịt lợn của Nga đạt 121.500 tấn trong nửa đầu năm 2024, chỉ tăng 2% so với năm trước. Điều đó có nghĩa là không tính thương mại với Trung Quốc, dòng cung ứng đã thu hẹp một chút. Kovalev tiết lộ rằng xuất khẩu sang Việt Nam, nước mua thịt lợn lớn nhất của Nga bên ngoài khu vực hậu Xô Viết, đã giảm mạnh 21%.
Kovalev cho biết, sự sụt giảm doanh số bán hàng sang Việt Nam có liên quan đến sự tăng trưởng theo hướng Trung Quốc, mà ông gọi là thị trường triển vọng nhất. Năm 2023, Việt Nam đã nhập khẩu 86.000 tấn thịt lợn Nga, tăng 89% so với năm 2022.
DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG THỊT LỢN THẾ GIỚI NĂM 2024
Sản lượng thịt lợn thế giới năm 2024 dự kiến đạt 116,3 triệu tấn, tương đương với năm 2023. Xuất khẩu thịt lợn thế giới năm 2024 dự kiến sẽ tăng 3,2% so với năm trước, lên 10,4 triệu tấn.
Trong báo cáo mới nhất của USDA ngày 12/7/2024 về Thị trường thịt Thế giới, dự báo sản lượng thịt lợn thế giới năm 2024 tương đương năm 2023. Dự báo nhập khẩu thịt lợn của Trung Quốc sẽ giảm mạnh, trở lại bằng mức trước khi dịch ASF bùng phát vào năm 2018 và khiến các nước xuất khẩu lớn phải tìm kiếm thị trường thay thế.
Nhập khẩu thịt lợn của Trung Quốc năm 2024 dự kiến sẽ giảm 21% so với năm trước xuống còn 1,5 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ năm 2019. Nếu điều này trở thành hiện thực, nhập khẩu trong năm 2024 của Trung Quốc sẽ trở lại mức tương đương so với mức trước khi dịch tả lợn châu Phi (ASF) bùng phát ở Trung Quốc – ASF bắt đầu tác động đến chăn nuôi của Trung Quốc vào cuối năm 2018.
Bất chấp dự báo nhập khẩu giảm, Trung Quốc dự kiến vẫn là nước nhập khẩu thịt lợn lớn nhất thế giới. Trong thời kỳ đỉnh điểm của dịch ASF vào năm 2020, nhập khẩu chiếm 13% lượng thịt lợn tiêu thụ của Trung Quốc. Kể từ năm 2022, tiêu thụ thịt nhập khẩu đã giảm dần khi sản xuất trong nước phục hồi sau dịch ASF và trở lại mức trước khi dịch ASF xảy ra. Trong năm 2024, sản lượng thịt lợn của Trung Quốc được dự báo tăng 56% so với năm 2020 và nhập khẩu năm trong 2024 dự kiến chỉ chiếm 3% lượng thịt lợn tiêu thụ.
Nguyên nhân do nguồn cung tại thị trường Trung Quốc dồi dào, kể từ đầu năm 2023 giá thịt lợn tại Trung Quốc liên tục ở mức thấp đã khiến nhập khẩu giảm. Giá thịt lợn trung bình trong quý I/2024 giảm 10% so với cùng kỳ năm 2023 và giảm 56% so với quý I/2020. Do đó, thịt lợn nhập khẩu khó cạnh tranh với giá thịt nội địa tại Trung Quốc.
Các nước cung cấp thịt lợn lớn cho Trung Quốc – bao gồm Liên minh châu Âu, Brazil và Mỹ – dự kiến sẽ tìm kiếm các thị trường thay thế. Tuy nhiên, những thị trường này sẽ chỉ có thể bù đắp một phần nhu cầu giảm từ Trung Quố Do đó, cạnh tranh dự kiến sẽ gia tăng ở các thị trường nhập khẩu lớn khác bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines.
Sản lượng thịt lợn thế giới năm 2024 dự kiến đạt 116,3 triệu tấn, tương đương với năm 2023. Xuất khẩu thịt lợn thế giới năm 2024 dự kiến sẽ tăng 3,2% so với năm trước, lên 10,4 triệu tấn. Nhập khẩu thịt lợn thế giới dự kiến đạt 9,11 triệu tấn vào năm 2024, giảm 1% so với năm 2023 (9,2 triệu tấn). Mức tiêu thụ dự kiến sẽ giảm 0,3% so với năm 2023, từ 115,5 triệu tấn xuống 115,1 triệu tấn.
Xuất nhập khẩu của các nước lớn
Trung Quốc, chiếm 48,8% sản lượng thịt lợn thế giới, dự kiến sẽ sản xuất 56,8 triệu tấn thịt lợn, giảm 2,1% so với năm 2023. Khối lượng nhập khẩu thịt lợn của Trung Quốc dự kiến sẽ giảm 20,9%, xuống mức 1,5 triệu tấn.
Sản lượng thịt lợn của Liên minh Châu Âu được dự báo sẽ tăng 1,7% lên 21,2 triệu tấn, trong khi xuất khẩu của EU sẽ tăng 0,8% (3,15 triệu tấn) so với năm 2023 (3,13 triệu tấn). Mặt khác, nhập khẩu ước tính đạt 100.000 tấn, giảm 7,4% so với năm 2023.
Mỹ dự kiến sẽ tăng sản lượng thêm 3,1% lên 12,8 triệu tấn và xuất khẩu dự kiến sẽ tăng 6,2% lên 3,3 triệu tấn.
Nhật Bản sẽ là nước nhập khẩu thịt lợn đứng thứ hai thế giới với 1,45 triệu tấn, tăng 1%.
Brazil dự kiến sẽ tăng sản lượng thêm 2,5%, đạt 4,6 triệu tấn. Xuất khẩu dự kiến đạt 1,42 triệu tấn, tăng 0,4% so với năm 2023.
Sản lượng của Mexico dự kiến tăng 2,1% lên 1,6 triệu tấn; nhập khẩu 1,41 triệu tấn và tăng 4,1% so với năm 2023.
Sản lượng của Canada được dự báo sẽ giảm 2,7%, đạt 2,05 triệu tấn vào năm 2024, trong khi xuất khẩu của nước này sẽ tăng 5,6% lên 1,4 triệu tấn.
Sản lượng của Việt Nam sẽ tăng 3,8%, từ 3,6 triệu tấn vào năm 2023 lên 3,7 triệu tấn vào năm 2024, trong khi nhập khẩu sẽ tăng 5,3% lên 120.000 tấn. Nga dự kiến sẽ tăng sản lượng thêm 2,5%, đạt 4,1 triệu tấn.
PHÁT HIỆN 5 NGƯỜI NHIỄM BỆNH THAN TẠI TRANG TRẠI NUÔI BÒ THỊT SƠN ĐÔNG- TRUNG QUỐC
Các trường hợp mắc bệnh than được phát hiện tại một trang trại chăn nuôi bò thịt ở Liêu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. 5 công nhân của trang trại bị nhiễm bệnh và đã được cách ly điều trị.
Địa điểm xuất hiện các trường hợp mắc bệnh than riêng lẻ là tại một trang trại chăn nuôi bò thịt ở thị trấn Thất Cấp, huyện Dương Cốc, thành phố Liêu Thành, tỉnh Sơn Đông.
Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc ngày 2/8 cho biết, sau khi phát hiện các trường hợp mắc bệnh, chính quyền địa phương đã đóng cửa trang trại, tiến hành tiêu hủy tất cả các động vật đang được nuôi tại đây; đồng thời tiến hành khử trừng, giám sát toàn diện trang trại và môi trường xung quanh. Kết quả không phát hiện vật nuôi dương tính khác.
Chính quyền địa phương cũng yêu cầu các sản phẩm được chế biến từ gia súc liên quan của trang trại không được đưa ra thị trường. Tiến hành điều tra toàn diện, lấy mẫu xét nghiệm và theo dõi triệu chứng đối với những người tiếp xúc với động vật mắc bệnh.
Năm công nhân của trang trại tiếp xúc trực tiếp với gia súc bị bệnh được chẩn đoán mắc bệnh than qua da, triệu chứng nhẹ và được cách ly, điều trị. Những người tiếp xúc gần đều đã được giám sát sức khỏe nghiêm ngặt và không phát hiện trường hợp lây nhiễm.
Được biết, bệnh than là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn Bacillus anthracis gây ra. Bệnh chủ yếu phổ biến ở các động vật ăn cỏ như bò và cừu. Con người thường bị nhiễm bệnh qua tiếp xúc với động vật bị bệnh hoặc sản phẩm được chế biến từ động vật bị bệnh, thường xuất hiện các triệu chứng như sốt cao, nôn mửa và tiêu chảy.

5 ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ BỆNH THIẾU MÁU TRUYỀN NHIỄM TRÊN HEO
Mycoplasma suis – gây ra thiếu máu và mất sữa ở heo. Bệnh do vi khuẩn Mycoplasma suis kí sinh trên và trong tế bào hồng cầu gây tình trạng nhiễm trùng máu toàn thân gây giảm tăng trọng, heo còi cọc, chậm lớn, gây ra thiệt hại lớn đối với năng suất chăn nuôi.
Bệnh thiếu máu truyền nhiễm trên heo do vi khuẩn Mycoplasma suis kí sinh trên và trong tế bào hồng cầu gây thiếu máu, nhiễm trùng toàn thân.
Bệnh lây nhiễm qua đường máu, không lây qua nước bọt, nước tiểu hay tinh dịch. Heo còn có thể bị lây nhiễm M. suis qua các dụng cụ thú y (kim tiêm, dụng cụ phẫu thuật), vết chích côn trùng hút máu…
Bệnh thường bùng phát nhiều ở thời điểm giao mùa, mùa mưa, độ ẩm cao, điều kiện chuồng trại kém,….
Bệnh có thể xảy ra mọi lứa tuổi :heo con theo mẹ, cai sữa, vỗ béo, cao nhất trên heo nái.
Do ít có thông tin về bệnh, các triệu chứng của bệnh Mycoplasma Suis dễ nhầm lẫn với các bệnh phổ biến khác trên heo như bệnh do Circovirus type 2, Glasser, bệnh do Leptospira, bệnh do thiếu sắt…
Việc sử dụng thường xuyên kháng sinh nhóm Tetracycline trong phòng – trị bệnh trên heo làm giảm đi dấu hiệu lâm sàng khiến việc chẩn đoán và kiểm soát bệnh không được chặt chẽ, dẫn đến M. suis lây nhiễm nhanh bên trong trại và giữa các trại heo, nhất là tại Việt Nam. Tỷ lệ trại heo nhiễm M. suis có thể rất cao, và tỷ lệ heo nhiễm có thể đến 88- 100%.

NGUYÊN TẮC NHẬP 2 ĐÀN LỢN VÀ KHẮC PHỤC HIỆN TƯỢNG CẮN NHAU
Khi nhập hai đàn lợn nuôi chung 1 chuồng, nhiều vấn đề có thể nảy sinh. Do vậy, ở bài viết này chúng tôi xin giới thiệu nguyên tắc nhập 2 đàn lợn vào nuôi chung một chuồng và khắc phục hiện tượng cắn nhau.
1. Nguyên tắc nhập 2 đàn lợn nuôi chung một chuồng
Khi nhập 2 đàn lợn ở 2 ô chuồng khác nhau vào 1 ô chuồng, thì chúng ta cần làm những việc như sau để lợn không cắn nhau:
- Thứ nhất, tiến hành nhập đàn vào ban đêm và khi nhập phải tắt điện đi tránh ánh sáng mạnh.
- Thứ hai, vẩy dầu ma dút hoặc dầu gió lên tất cả các con lợn ở cả hai đàn để tạo đồng mùi.
- Thứ ba, nên nuôi đàn lợn mới nhập ở 1 ô chuồng mới, chứ không nên nuôi ở 1 trong 2 ô chuồng cũ.
2. Nguyên nhân hiện tượng lợn cắn nhau và cách khắc phục
a. Nguyên nhân: có thể do 3 nguyên nhân sau:
- Nuôi lợn nhốt ở chuồng thông thoáng quá, có ánh nắng chiếu vào chuồng, gần đường giao thông
- Do không cung cấp đủ nước uống cho lợn.
- Do chất lượng thức ăn không đầy đủ dinh dưỡng và cân bằng dinh dưỡng đặc biệt là nhóm các nguyên tố vi lượng
b. Khắc phục hiện tượng cắn nhau:
- Kiểm tra lại chuồng trại che chắn để giảm bớt ánh nắng chiếu vào chuồng.
- Cung cấp đầy đủ nước uống cho lợn.
- Lợn giai đoạn nào thì cho ăn đúng cám giai đọan đó.
- Ngoài ra bà con có thể cho quả bóng nhựa hoặc cắt lốp xe ô tô từ 20-40cm, sau đó rửa sạch thả vào chuồng để chúng cắn vào cái đó, sẽ hạn chế được lợn cắn lẫn nhau.
Môi trường chăn nuôi
