Kỹ thuật

VITAMIN VÀ NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA HEO

Một trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng cao năng suất sinh sản, giảm chi phí sản xuất là nâng cao chỉ số PSY (số con cai sữa/nái/năm). Ngoài việc cải thiện di truyền, kỹ thuật chăn nuôi thì việc bổ sung vitamin cũng giúp nâng cao năng suất sinh sản. Vitamin C giúp nâng cao chất lượng tinh heo đực, giảm tình trạng không mang thai vào mùa nóng.Nếu bổ sung vitamin D cho heo hậu bị thì sẽ giúp xương heo cứng, tránh tình trạng yếu chân, loãng xương khi nuôi nhốt trong chuồng ép, giảm tình trạng đào thải sớm.Riboflavin giúp giảm tình trạng không lên giống trên heo hậu bị. Vitamin E giúp tăng số heo con đẻ ra. A-xít folic và biotin giúp tăng tỷ lệ sống sót heo con trong thời kì mang thai của nái.Nếu nái nuôi con được bổ sung vitamin E thì chúng sẽ truyền vitamin E cho heo con qua sữa mẹ. Heo con được bổ sung vitamin E sẽ linh hoạt, hệ miễn dịch cũng tốt hơn.Biotin giúp rút ngắn thời gian lên giống lại sau cai sữa, ngoài ra biotin còn giúp giảm các vấn đề về móng và chân heo.Để cải thiện năng suất sinh sản cho heo, cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ. Các biện pháp này bao gồm cải thiện chất lượng di truyền, nâng cao kỹ thuật nuôi dưỡng quản lý, bổ sung dinh dưỡng.Để chăn nuôi tốt cần hiểu rõ chu kỳ sinh sản của nái. Ngoài ra, cần nắm rõ đặc tính của heo đực, hậu bị, heo con, cũng như cần chú ý tới các vấn đề như độ dày mỡ lưng, tốc độ tăng trọng, số heo con đẻ ra.Về mặt dinh dưỡng học, vitamin có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất sinh sản. Vitamin giúp cải thiện hiệu quả năng suất, tuổi thọ sinh sản, tăng sức khỏe heo con.Heo đực và chất lượng tinhViệc nuôi heo đực trong trại nái không chỉ phục vụ việc lấy tinh mà chúng còn giúp nái tăng năng suất thông qua kích thích các giác quan như khứu giác, thị giác, thính giác, xúc giác của nái. Việc nuôi nhốt chung nái và heo đực trong trại giúp rút ngắn thời gian lên giống lại sau cai sữa, dễ dự đoán thời gian nái rụng trứng.Khi đực già đi hoặc bị stress nhiệt thì chất lượng tinh của chúng sẽ giảm xuống. Nếu đực bị stress nhiệt thì nên bổ sung vitamin C để tăng số lượng và chất lượng tinh. Ngoài ra, nên bổ sung vitamin E và selenium vào khẩu phần ăn heo đực sẽ giúp cải thiện chất lượng tinh.Lựa chọn heo hậu bịViệc lựa chọn hậu bị và thời điểm phối (với ngày tuổi và trọng lượng phù hợp) không chỉ ảnh hưởng đến năng suất lứa đầu mà còn ảnh hưởng tới tuổi thọ sinh sản và năng suất các lứa sau.Để kéo dài tuổi thọ sinh sản cho hậu bị thì bộ khung xương phải phát triển tốt. Bộ khung xương khỏe mạnh thì hậu bị mới khai thác được lâu dài. Để tránh nái bị loãng xương thì cần cho chúng vận động. Với điều kiện nuôi nhốt trong chuồng ép thiếu vận động, vấn đề loãng xương của nái càng thêm trầm trọng, dễ dẫn tới việc đào thải sớm.Bổ sung 25-hydroxy-vitamin D3 cho nái sẽ giúp chống loãng xương, tăng cường sự cứng cáp của khung xương nái.PhốiSự rụng trứng và thụ tinh: Tùy theo độ tuổi mà nái có thể có từ 15~25 trứng. Số trứng rụng của nái tơ thường ít hơn nái rạ. Heo hậu bị được bổ sung riboflavin trong khẩu phần sẽ giúp giảm tình trạng không lên giống.Trong trường hợp nái bị stress cấp tính hay mãn tính dẫn đến tình trạng không mang thai vào mùa nóng thì ta nên bổ sung vitamin C.Bổ sung vitamin E vào khẩu phần ăn của nái sẽ giúp tăng số heo con sinh ra.Mang thai và sự phát triển của thai nhi: Khoảng 80~90% sự cố về thai nhi xảy ra trong vòng 25 ngày sau khi phối. 10~20% sự cố còn lại xảy ra vào kì cuối mang thai. Có thể, khi thai nhi phát triển quá nhanh chúng cần không gian lớn, nhưng với những nái tơ thì không gian dạng này thường nhỏ, nên dễ dẫn tới sẩy thai.Vitamin cần thiết cho sự phát triển thai nhi là biotin và a-xít folic. Theo một số nghiên cứu cho thấy, nếu bổ sung biotin vào khẩu phần hậu bị sẽ giúp gia tăng chiều dài sừng tử cung thêm 20%. Nếu không bổ sung các vitamin cần thiết vào khẩu phần ăn của nái sẽ khiến số heo con đẻ ra bị ít đi.Nếu heo nái bị thiếu vitamin A thì sự phát triển phổi và gan của heo con không tương xứng với các bộ phận cơ thể khác.Đẻ và cai sữaSữa mẹ và chất dinh dưỡng truyền cho con: Với sự phát triển về di truyền học thì số lượng heo con đẻ ra và tốc độ tăng trọng đã được cải thiện nhiều.Khi số heo con đẻ ra nhiều, người chăn nuôi cần đảm bảo nái tiết đủ sữa nuôi con. Trong sữa đầu và sữa thường của nái có hàm lượng lớn canxi. Chính vì vậy, để heo con phát triển tốt thì cần bổ sung canxi và vitamin D3 vào khẩu phần nái nuôi con. Chúng ta đều biết vitamin tan trong chất béo không thể truyền qua nhau thai. Chính vì vậy, mọi heo con sinh ra đều ở trong tình trạng thiếu vitamin tan trong chất béo và năng lượng. Ta cần bổ sung năng lượng cho heo con bằng cách nhanh chóng cho bú sữa đầu, rồi sữa thường của nái. Sữa đầu và sữa thường của nái đều có hàm lượng vitamin E cao và chúng dễ dàng truyền qua cho heo con. Heo con nhận được những vitamin cần thiết đều qua sữa mẹ. Ta cần bổ sung vitamin vào khẩu phần nái nuôi con, nếu sữa nái có đầy đủ chất thì heo con sẽ tăng trọng nhanh.Trước khi cai sữa, nếu heo con nhận đầy đủ vitamin thì chúng sẽ nhanh chóng vượt qua stress khi cai sữa.Nái lên giống lại sau cai sữa: Biotin giúp nái tăng cường trao đổi chất, giúp rút ngắn thời gian lên giống lại sau cai sữa. Hơn thế nữa, biotin còn hỗ trợ sản xuất estrogen, giúp giảm tình trạng không lên giống hoặc lên giống yếu.Tuổi thọ sinh sản của náiTuổi thọ sinh sản của nái có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề kinh tế của trang trại. Nếu tỷ lệ nái lứa thấp bị đào thải nhiều thì tuổi thọ sinh sản của nái sẽ bị rút ngắn. Khi phân tích nguyên nhân đào thải nái ta thấy có 3 nguyên nhân chính đó là: năng suất kém, nái già và vấn đề chân móng. Các vấn đề trên thường liên quan tới bộ khung xương và thể trạng (Body score - BCS) của nái.Để khắc phục tình trạng này, cần bổ sung một lượng thích hợp vitamin D3 và canxi trong khẩu phần cho heo hậu bị trước khi nhập vào bầy sinh sản nhằm phát triển khung xương. Biotin giúp giảm các tình trạng tổn thương móng chân trên heo. Nguồn: heo.com.vn Theo Pig & Pork

NUÔI DƯỠNG GÀ VÀO MÙA NÓNG

Thông qua việc tạo và giải phóng thân nhiệt sẽ giúp gà duy trì thân nhiệt nằm ở mức 40,1 – 41,7OC. Nếu nhiệt lượng sản xuất ra nhiều hơn lượng nhiệt lượng giải phóng gà sẽ bị stress nhiệt. Lúc này gà sẽ tăng cường hô hấp, tăng lượng nước uống vào và giảm lượng cám ăn. Khi nhịp hô hấp tăng nhanh thì carbon dioxide từ máu sẽ được thải ra nhiều à độ pH trong máu tăng (tăng độ kiềm), phá vỡ sự cân bằng chất dinh dưỡng vô cơ và chất điện giải trong cơ thể. Gà có thể giảm tỷ lệ đẻ, chất lượng vỏ trứng bị ảnh hưởng. Gà thịt có thể chậm lớn, ảnh hưởng tới FCR, tăng tỷ lệ chết. Đặc biệt, là những trại nuôi với mật độ cao nếu không chú ý để nhiệt độ chuồng trại tăng thì đàn gà sẽ bị thiệt hại rất lớn.Quản lý thức ăn: Vào mùa nóng gà sẽ giảm lượng cám ăn vào nên cần cung cấp cám có hàm lượng đạm cao. Tuy nhiên, những loại cám này thì thường giá cao. Hơn nữa, thức ăn có hàm lượng chất béo cao sẽ dễ hư. Có thể chuyển sang cho ăn vào lúc thời tiết mát (lúc sáng sớm hoặc chiều tối). Không nên cho gà ăn khi thời tiết nóng. Bổ sung thêm chất điện giải và vitamin vào trong cám. Về mặt sinh lý khi hô hấp tăng, lượng cám ăn vào giảm thì mức độ cân bằng của chất điện giải bị phá hủy à ảnh hưởng tới quá trình hình thành vỏ trứng, tỷ lệ vỏ trứng bị bể cao. Bổ sung Na4Cl và NaHCO3 sẽ giúp cải thiện độ pH. Vitamin A, C, E sẽ giúp nâng cao sức miễn dịch của các tế bào trong cơ thể. Vitamin D3 giúp tăng hiệu quả hấp thu canxi à giúp cải thiện chất lượng trứng.Bổ sung đầy đủ nước uống, vệ sinh silô cám để chống nấm mốc. Ban ngày có thể mở nắp silô để thoát nhiệt ra bên ngoài và ban đêm có thể đóng lại. Bên ngoài silô có thể bọc cách nhiệt để tránh nhiệt độ lên quá cao.Quản lý cấp nước: thông thường gà sẽ uống gấp đôi lượng cám ăn vào. Thời tiết nóng thì lượng nước gà uống sẽ gấp từ 4 – 8 lần lượng cám ăn vào. Nhiệt độ nước uống không được vượt quá 250C.Có thể bỏ đá vào bồn chứa nước để hạ nhiệt độ nước uống. Nước sẽ giúp gà ức chế sự phát triển của vi khuẩn và nấm mốc gây hại à hạn chế dịch bệnh. Định kỳ cần kiểm tra chất lượng nước.Quản lý đèn: Việc sử dụng đèn tròn sợi đốt có thể khiến nhiệt độ trong trại tăng cao. Nên sử dụng đèn có ánh sáng trắng không tỏa nhiệt.Quản lý chuồng trại: để giảm nhiệt độ cảm nhận thì trong trại cần điều chỉnh thông thoáng khí thích hợp. Nếu tốc độ gió 0,25 m/s có thể giảm nhiệt độ cảm nhận khoảng 0,560C. Tốc độ gió 2,54 m/s có thể giảm nhiệt độ cảm nhận lên tới 5,560C.Nếu lắp đặt hệ thống làm lạnh cooling pad có thể giúp giảm nhiệt độ chuồng xuống từ 3 – 5 0C và tăng độ ẩm lên từ 10 – 20%. Ẩm độ cũng sẽ ảnh hưởng tới stress nhiệt của gà. Nếu nhiệt độ là 200C nhưng độ ẩm lên tới 90% thì gà vẫn bị stress nhiệt. Mái chuồng trại nên lắp các vật liệu cách nhiệt hoặc hệ thống phun nước trên mái. Nguồn: channuoigiacam.com

QUẢN LÝ NÁI CAO SẢN

Lý do khiến các trại tuy đã nhập các giống heo cao sản nhưng năng suất chưa đạt được mức mong muốn: thiếu sót trong việc sử dụng chế phẩm thay thế sữa và quản lý cho ăn nái hậu bị.Ưu điểm Khuyết điểm Kết quả chăn nuôiSố heo con đẻ ra cao.Số heo cai sữa nhiều. Số heo con còi tăng.Lượng sữa/heo con giảm, tỷ lệ chết cao.Dễ dẫn tới tình trạng giảm ăn.Trọng lượng giảm mạnh thời kỳ nuôi con. Trọng lượng cai sữa giảm.Năng suất thời kỳ nuôi thịt giảm.Tỷ lệ đào thải cao, năng suất lứa tiếp theo giảm.Bảng 1: Ưu, khuyết điểm của nái cao sản.Tỷ lệ sẩy thai và heo con theo mẹ chết cao. Thiếu sữa.Nái nuôi con giảm ăn.Khó quản lý thể trạng.Thời gian đẻ kéo dài.Trọng lượng sơ sinh nhỏ.Heo giành bú sữa. Nái phải nuôi quá nhiều heo con. Thời tiết nóng, nái giảm ăn, giảm tiết sữa. Số nái đào thải tăng.Năng suất trong vòng đời giảm.Bảng 2: Những khó khăn khi quản lý nái cao sản.Nái đẻ nhiều con nhưng do trọng lượng sơ sinh thấp nên khi đó số heo con cai sữa không cao. Nái thiếu sữa nên lựa những heo con khỏe mạnh cho sử dụng các chế phẩm thay thế sữa, những heo con còi yếu sẽ tập trung cho bú sữa mẹ. Cần cho nái hậu bị ăn theo chế độ riêng để hạn chế tình trạng năng suất lứa 2 sụt giảm.Chỉ số LP5 (tỷ lệ sống heo con đến 5 ngày tuổi): trong các chỉ số cải thiện năng suất thì chỉ số LP5 chiếm tỷ trọng lớn.Cải thiện tỷ lệ sống so với tổng sinh: các nước chăn nuôi tiên tiến họ tập trung đầu tư nghiên cứu để giảm số heo con chết, tăng trọng lượng cai sữa và giảm chênh lệch trọng lượng trong bầy. Trại tập trung quản lý nái vào giai đoạn 10 ngày trước đẻ đến 3 ngày sau cai sữa để tăng tỷ lệ heo con sống. Nái được bổ sung chất dinh dưỡng để giảm số heo con còi, tăng cường lượng sữa nái sản xuất. Nguồn: koreapork

CÁC BIỆN PHÁP GIÚP THỤ TINH NHÂN TẠO THÀNH CÔNG

Thụ tinh nhân tạo có nhiều ưu điểm nhưng cũng có những khuyết điểm. Nếu ta không phối đúng thời điểm thì sẽ không mang lại hiệu quả. Phối heo sau thời điểm rụng trứng sẽ khiến lượng heo con đẻ ra giảm, tỷ lệ đẻ thấp hơn 20% so với thông thường. Xác định heo lên giống và tìm ra thời điểm phối thích hợp là chìa khóa thành công của việc thụ tinh nhân tạo.Chuyên gia thụ tinh cần phải có kỹ năng phát hiện lên giống nhanh và chính xác. Bước đầu tiên để nâng cao năng suất phối là phải tìm ra thời điểm phối thích hợp.Những điểm cần lưu ý khi muốn thụ tinh nhân tạo thành công. Nái cần được phối đúng thời điểm. Kiểm tra lên giống 2 lần/ ngày. Sau khi heo cai sữa, tùy thuộc vào số ngày lên giống lại và bình quân thời gian lên giống liên tục để đưa ra kế hoạch thụ tinh. Nếu làm được những điều trên thì tỷ lệ đẻ và số heo con đẻ ra sẽ cao.Cần kiến thức và kỹ thuật:Cần người được huấn luyện kỹ về kỹ thuật. Người quản lý trại phối mỗi ngày phải kiểm tra trại 3 ~ 4 lần, có sự yêu thích và nhiệt huyết với việc xác định nái lên giống.Nái phải được cấp cám chính xác:Nái được cho ăn đúng và đủ sẽ hỗ trợ tốt cho việc lên giống và thụ thai. Trước khi phối cần cung cấp đầy đủ dưỡng chất và chất xơ. Bổ sung thêm vitamin và các khoáng chất vi lượng khi cần thiết.Sau khi cai sữa nên di chuyển ngay:Khi cai sữa cần cách ly ngay nái và heo con. Khi lượng dinh dưỡng cung cấp cho nái giảm đột ngột và môi trường nuôi thay đổi sẽ giúp chúng lên giống.Lắp đặt đèn chiếu sáng khu vực phối:Khu vực phối cần có độ sáng khoảng 100 lux. Một đêm chiếu sáng khoảng 2 ~ 3 tiếng nhằm hỗ trợ heo lên giống. Ánh sáng khu vực phối rất quan trọng. Để hỗ trợ heo lên giống cần phải kéo dài thời gian heo tiếp xúc với ánh sáng.Cho tiếp xúc trực tiếp với heo đực:Nái cai sữa cần được tiếp xúc trực tiếp với đực 2 lần/ ngày. Do được tiếp xúc với đực, nái trở nên quen, không sợ đực.Dùng đực để kiểm tra lên giống trên 2 lần/ ngày:Để kiểm tra nái lên giống cần sử dụng heo đực (2 lần/ ngày). Duy trì tiếp xúc giữa đực và nái khoảng 5 ~ 15 phút/ lần. Nếu không có heo đực, lúc kiểm tra lên giống lần 2 phải dùng tay ấn lên lưng nái. Cần nắm rõ thời gian phối: Cần phối vào thời điểm trước khi trứng rụng khoảng 10 ~ 24 tiếng. Trứng rụng vào thời điểm 2/3 của chu kỳ lên giống. Ví dụ heo lên giống liên tục trong vòng 2 ngày (48 tiếng) thì sau 15 ~ 24 tiếng kể từ khi ấn lưng mà nái đứng im chịu đực thì ta có thể đưa vào phối. Còn nếu thời gian nái lên giống liên tục là 3 ngày (72 tiếng) thì thời điểm phối là sau 30 ~ 40 tiếng khi nái đứng im chịu đực. Những nái sau cai sữa lên giống lại nhanh, thường có thời gian lên giống liên tục dài. Ngược lại, nái lên giống lại chậm thì thời gian lên giống liên tục ngắn. Lưu ý, đối với heo hậu bị, khi xác định đã lên giống thì nên đưa vào phối nhanh.Để xác định thời điểm phối cần chú ý tới cơ thể nái. Khi âm hộ nái chuyển sang tái, không còn sưng đỏ, hoặc khi có đực đứng trước mặt, dùng tay ấn vào lưng nái vẫn đứng im trên 2 phút, thì đó là thời điểm phối thích hợp.Khi phối cho nái, nếu xoa đè vào người nái sẽ giúp tử cung nái co bóp, khiến tỷ lệ thụ thai và số heo con đẻ ra cao hơn. Cần quản lý sao cho, đa số nái phối một lần đã thụ thai, số nái phối 2 lần mới mang thai chỉ chiếm từ 30 ~ 40%.Thả đực đứng trước đầu nái khi phối:Khi tiến hành phối cho nái, nên thả đực vào trại phối cho nái nhìn thấy. Ngoài ra, khi phối nên ấn vào lưng nái hoặc cho nái đeo bao cát, vòng lưng, sẽ mang lại hiệu quả cao.Sau khi phối cho nái cần chú ý nái có lên giống không:Sau khi phối cho nái, nếu thời gian lên giống kéo dài hơn dự kiến thì nên phối thêm một lần nữa. Thời điểm phối lần 2 nên sau khi phối lần 1 khoảng 16~24 tiếng.Kỹ thuật phối phải đúng:Trước khi phối cho nái, phải vệ sinh sạch âm hộ của nái. Xoa ít dầu hoặc gel chuyên dụng vào đầu cây phối, sau đó đưa vào bên trong cổ tử cung nái bằng cách xoay ngược chiều kim đồng hồ. Thời gian tiếp nhận tinh của mỗi nái có sự khác biệt. Không được bóp mạnh để đưa tinh vào nhanh.Lựa chọn nhà cung cấp tinh tốt:Trại cần lựa chọn nhà cung cấp tinh có uy tín. Khi giao tinh, tinh phải được bảo quản ở nhiệt độ 16 ~ 170 C. Tinh phải được sử dụng trong vòng 48 tiếng kể từ khi khai thác.Tạo cảm giác an toàn cho nái sau khi được phối xong:Nái sau khi được phối xong nên nhốt ở chuồng ép trong khoảng 4 tuần. Thời gian này không được cấp cám quá nhiều và phải luôn tạo cảm giác an toàn cho nái. Kiểm tra liên tục heo có lên giống không trong vòng 19 ngày. Sau đó, có thể siêu âm để xác định nái mang thai. Theo pignpork.com

BỔ SUNG CHẤT ĐIỆN GIẢI CHO GÀ

Không khí nóng gây thiệt hại rất lớn đến ngành chăn nuôi gà. Gà có đặc điểm là thân nhiệt ở mức cao trên 410C, bao quanh thân là lớp lông dày, không có tuyến mồ hôi. Gà chỉ có thể điều chỉnh thân nhiệt qua hô hấp và bài tiết. Nhưng may mắn là mạch máu ở mào và vùng cổ có thể giúp gà điều chỉnh được thân nhiệt.Để duy trì được sự sống, sản xuất thịt và trứng gà phải sử dụng cám. Tuy nhiên, việc tiêu hóa thức ăn sẽ phát sinh rất nhiều nhiệt lượng. Gà phải hô hấp trong môi trường nóng ẩm sẽ rất dễ bị mệt, mất nước.Nhiệt độ thích hợp nhất cho gà là từ 10-20OC. Khi nhiệt độ đạt trên 30 OC thì lượng nước sẽ uống vào tăng nhưng lượng cám ăn vào sẽ giảm. Độ ẩm không khí trên 60% thì gà bắt đầu khó thở, miệng há rộng, chân và cánh dang ra. Trường hợp gà đẻ, trọng lượng và chất lượng trứng sẽ giảm. Một số trường hợp gà sẽ ngừng đẻ khiến tỷ lệ đẻ bị ảnh hưởng. Khi gà mệt mỏi kéo dài, nhiệt lượng tích tụ trong máu, khiến máu lưu thông không bình thường à máu bị axit hóa. Thông thường máu có tính kiềm nhẹ giúp hỗ trợ dinh dưỡng cho tế bào, hỗ trợ tiêu hóa, bài tiết carbon dioxide còn dư ra bên ngoài.Nếu môi trường xung quanh nóng ẩm, máu không thể thải carbon dioxide ra bên ngoài khiến máu có tính axit nhẹ.Lượng axit lactic tích lũy trong cơ thể khiến cho gà dù chạm nhẹ cũng bị đau, phát ra tiếng kêu, gà không ngồi được. Lúc này não sẽ phát ra tín hiệu cho gà uống nước để duy trì tính kiềm trong máu. 70% trọng lượng cơ thể gà là nước. Ở gà con tỷ lệ này còn cao hơn. 75% trọng lượng trứng gà cũng là nước. Vì vậy để sản xuất trứng thì gà cần rất nhiều nước.Khi thời tiết nóng gà sẽ uống một lượng nước gấp 3 lần lượng cám ăn vào (trên 500 ml). Nhiệm vụ của trại là phải cung cấp đầy đủ nước sạch và mát cho gà.Hiện nay các trại mới xây có hệ thống đo lượng nước và pha thuốc hiện đại. Nhưng vẫn còn trại, cung cấp nước theo kiểu cũ là dùng ống nước dẫn tới từng chuồng. Khi sử dụng lâu ngày sẽ phát sinh các vấn đề nghẹt ống, thiếu nước. Ngoài ra, nước có thể nhiễm bẩn ngay từ trong bể nước. 90% máu chính là nước, nên nước là yếu tố dinh dưỡng cần thiết đối với sức khỏe của gà. Nước giúp vận chuyển các chất dinh dưỡng và tế bào miễn dịch đến các cơ quan. Nước còn giúp tiêu hóa và bài tiết các chất thải ra bên ngoài. Thời tiết nóng sẽ khiến vi sinh vật trong đường ruột tăng, tiết ra các độc tố gà bị tiêu chảy.Chất điện giải chính là nước được pha với muối. Muối ở đây có thể là natri,kali, canxi và magiê. Những chất này sẽ hỗ trợ trao đổi chất, tăng cường sự thẩm thấu của các ion âm và dương bên trong và ngoài thành tế bào tăng cường sức đề kháng của tế bào.Ở con người khi khô cổ, khát nước thì đó là tín hiệu của sự cân bằng chất điện giải bị phá vỡ. Còn gà khi liên tục bu quanh núm uống thì đó là dấu hiệu cần cung cấp bổ sung thêm chất điện giải. Gà khi bị stress do nhiệt độ cao, chúng sẽ tiết ra adrenaline khiến tốc độ tuần hoàn máu tăng nhanh. Cộng với việc tăng nhịp thở để nhận nhiều oxy khiến chất điện giải trong cơ thể gà bị sụt giảm. Trên thị trường hiện nay có bán nhiều chế phẩm chứa chất điện giải và có bổ sung thêm vitamin. Lưu ý nên lựa chọn các chế phẩm có chất lượng tốt, không đóng cặn gây nghẹt đường ống.  Nguồn: channuoigiacam.com

ĐỘC TỐ NẤM MỐC: CÁNH CỬA CHO CÁC BỆNH TRUYỀN NHIỄM.

Ảnh hưởng trực tiếp của độc tố nấm mốc lên sức khỏe động vật bây giờ đã đuợc biết rõ hơn. Những ảnh huởng của chúng lên hệ miễn dịch mở ra cánh cửa cho virus thường ít được thảo luận, Có nhiều lí do để nghi ngờ rằng chúng đóng vai trò nào đó trong bệnh do PRRSv, PCV2 và PENS (Porcine Ear Necrosis Syndrome). Độc tố nấm mốc là những chất biến duỡng thứ cấp khác nhau do nấm sinh ra khi phát triển trong thức ăn cho động vật. Việc hấp thụ độc tố nấm mốc, tuy ở mức chưa gây bệnh lý lâm sàng rõ rệt, có thể ức chế chức năng miễn dịch và làm giảm sức đề kháng đối với các bệnh truyền nhiễm. Sự mẫn cảm của hệ thống miễn dịch đối với độc tố nấm mốc gây suy giảm miễn dịch xuất phát từ sự nhạy cảm của các tế bào có chức năng điều hoà miễn dịch trong quá trình tăng sinh và biệt hoá liên tục của chúng.Suy giảm miễn dịch do độc tố nấm mốc làm giảm hoạt động của tế bào T, B, suy giảm sự sản xuất globulin miễn dịch và kháng thể, giảm hoạt động của bổ thể hoặc Interferon và suy giảm chức năng tế bào đại thực bào. Mặc dù cơ chế tác động gây suy giảm miễn dịch đặc hiệu của độc tố nấm mốc hiện nay chưa rõ ràng, nhưng sự ức chế tổng hợp DNA, RNA và protein thông qua một loạt các cơ chế khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới tác động suy giảm miễn dịch của nhiều độc tố nấm mốc.Miễn dịch đường tiêu hóaDeoxynivalenol (DON) thuộc nhóm độc tố nấm mốc trichothecene, được sản sinh bởi các loài nấm mốc Fusarium. Trong số các loài động vật dạ dày đơn, heo là loài cảm nhiễm nhất với DON, độc tố làm giảm lượng thức ăn và giảm tăng trọng rõ rệt. DON cũng đã được ghi nhận là có thể làm tăng sự cảm nhiễm với virus. Thiệt hại kinh tế do độc tố nấm mốc là không thể xác định chính xác, nhưng Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) ước tính, thu hoạch nông sản tại Mỹ thiệt hại trung bình hàng năm do độc tố nấm mốc aflatoxin, fumonisins và deoxynivalenol vào khoảng 932 triệu đô Mỹ.Niêm mạc ruột đóng vai trò như một rào cản, ngăn chặn sự xâm nhập của kháng nguyên từ bên ngoài, bao gồm protein trong thực phẩm, thuốc, độc tố, vi sinh vật cộng sinh và các mầm bệnh, vào các mô. Theo đường ăn uống, một lượng deoxynivalenol từ thấp đến trung bình sẽ tiếp xúc trước nhất với các lớp tế bào biểu mô dạ dày-ruột. Miễn dịch niêm mạc bao gồm hệ thống miễn dịch bẩm sinh và thu được có thể bị ảnh hưởng bởi DON. Các thành phần quan trọng của hệ miễn dịch bẩm sinh là các tế bào biểu mô ruột, chúng được kết với nhau bằng các liên kết chắc chắn và được phủ chất nhầy sản xuất bởi các tế bào goblet trên niêm mạc ruột. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, DON có thể làm tăng tính thấm của lớp biểu mô ruột heo và ảnh hưởng đến khả năng tồn tại và phát triển của các tế bào biểu mô ruột. Một số độc tố nấm mốc cũng có khả năng điều tiết việc sản xuất các cytokine, trong khi DON làm tăng sự sản sinh TGF-β và IFN-γ trong các tế bào biểu mô ruột. Ở cấp độ tế bào, độc tính chính của DON là sự ức chế tổng hợp protein bằng cách làm gián đoạn tổng hợp DNA và RNA. DON ảnh quan trọng đến sự phân chia của các tế bào, bao gồm những tế bào trên bề mặt đường tiêu hóa. Cần lưu ý rằng DON do gây ra quá trình chết tế bào trên đường tiêu hoá, làm biến đổi niêm mạc dạ dày, biểu mô hạt dạ dày và tế bào khe ruột.Ảnh hưởng nhiều hơn đối với virusĐộc tố nấm mốc Fusarium, bao gồm DON, làm giảm khả năng loại bỏ Reovirus ở ruột.PRRSvVirus PRRS là một loại virus lây nhiễm cao, nhân lên trong các bạch cầu đơn nhânVirus PEDCơ chế phát sinh bệnh và miễn dịch của virus PED tương tự như ở bệnh viêm dạ dày ruột.Hội chứng hoại tử tai ở heoVai trò quan trọng của độc tố nấm mốc cần được nhấn mạnh trong một bệnh quan trọng khácThay đổi tính cảm nhiễm đối với bệnh truyền nhiễmKết luận, độc tố nấm mốc có thể làm thay đổi tính cảm nhiễm của thú đối với các bệnh truyền nhiễm Nguồn: Heo.com.vn

7 CÁCH GIÚP TĂNG LƯỢNG THỨC ĂN ĂN VÀO Ở HEO CAI SỮA

Nếu lượng thức ăn ăn vào tăng thêm 100 g ở tuần đầu sau cai sữa, thì thể trọng của heo con sẽ tăng ít nhất 2 kg khi kết thúc 4 tuần sau cai sữa. Có nhiều cách để dẫn dụ heo cai sữa bắt đầu ăn vài giờ sau khi tách mẹ, nhưng chúng ta vẫn làm theo những cách thức xưa cũ khiến cho heo con bị thiếu thức ăn trong nhiều ngày.Nhiệm vụ tập ăn thức ăn khô cho heo cai sữa thường không dễ dàng gì. Lượng thức ăn ăn vào sau cai sữa luôn thấp hơn so với nhu cầu biểu hiện hết tiềm năng di truyền của sự tăng trưởng ở heo hiện đại. Thông thường, vấn đề hóc búa này được cho là do cai sữa sớm ở 2 – 3 tuần, không giống với cai sữa tự nhiên ở khoảng 8 tuần tuổi, nhưng kể cả khi cai sữa ở 3 – 4 tuần tuổi thì kết quả quan sát được cũng cho thấy không khả quan hơn.Nhiều chuyên gia dinh dưỡng gọi tình trạng này là “bỏ ăn” hay chán ăn nếu heo vẫn nhịn đói thay vì ăn thức ăn khô. Việc đến thăm chuồng heo cai sữa sẽ mang đến nhiều thông tin để có thể giải quyết các vấn đề gặp phải sau cai sữa. Heo đói thì theo bản năng sẽ tự động ăn thức ăn khô, chúng chỉ không biết là thức ăn nằm ở đâu và tìm thấy như thế nào. Theo kinh nghiệm của tôi, không phải việc heo bỏ ăn là vấn đề mà là không nhận ra được những tập tính của heo con và giúp chúng thích nghi với hệ thống cho ăn mới là vấn đề thực sự.Vì vậy, trong các điều kiện chăn nuôi công nghiệp, heo cai sữa luôn phải trải qua tình trạng thiếu thức ăn không tự nguyện. Điều này làm tăng chi phí sản xuất và làm giảm hiệu suất tăng trưởng ở giai đoạn nuôi thúc, ảnh hưởng tiêu cực đến tổng lợi nhuận thu được. Không bình thường khi heo nhịn đói trong 3 đến 5 ngày sau khi cai sữa, nếu mọi thứ được thực hiện tốt ngay từ ban đầu, heo con nên bắt đầu ăn trong vòng vài giờ sau khi chuyển đến chuồng cai sữa . Hãy để chúng tôi kiểm tra làm thế nào điều này có thể được thực hiện:Chọn thức ăn sau cai sữa phù hợp nhấtNgay cả trong kịch bản tài chính tồi tệ nhất của trại, thì việc cắt giảm chi phí thức ăn heo con không phải là một động thái khôn ngoan nhất. Khẩu phần cho heo con phải là khẩu phần tốt nhất và cũng tốn kém nhất, nhưng may mắn đây chỉ là một giai đoạn ngắn và chúng ta không phải cho ăn quá lâu để đạt được lợi ích mong muốn: tập cho heo ăn thức ăn khô. Đầu tiên nên cung cấp một khẩu phần cân bằng và ngon miệng để thu hút heo tìm đến thức ăn, sau khi heo đã ăn, có thể thay thế bằng một khẩu phần ít tốn kém hơn. Có thể cho heo con ăn đến 2 kg thức ăn/heo, nhưng nếu việc quản lý thức ăn được thực hiện đúng cách chỉ cần cho ăn 250 g/con là đủ. Heo con sẽ tìm kiếm thức ăn trên sàn chuồng theo bản năng.Bắt đầu cho ăn trên đệm lót sàn chuồngHầu hết các nhà chăn nuôi sẽ cung cấp thức ăn khô (thường là dạng viên) ở các máng ăn thông thường và kỳ vọng heo con nhận ra. Nhưng điều này hoàn toàn sai. Heo con sẽ tìm kiếm thức ăn trên sàn theo bản năng và việc rãi một lượng nhỏ thức ăn trên đệm lót sàn chuồng sẽ kích thích heo con đánh hơi và tìm đến thức ăn khô. Cũng nên đặt thức ăn cả trong máng tập ăn thông thường hay máng nhựa. Thức ăn viên là lựa chọn tốt nhất cho khẩu phần thứ 2 và luôn luôn phải trộn chung với thức ăn tập ăn đầu tiên.Sử dụng nguyên liệu đặc biệtCó 2 loại nguyên liệu/phụ gia thức ăn: một là làm tăng khả năng tiêu hóa/tính thèm ăn, loại còn lại là tăng cường chức năng đường ruột. Thực tế, tăng cường sức khỏe đường ruột đảm bảo heo sẽ đạt được tiềm năng tối đa, trong khi tăng khả năng tiêu hóa rất cần cho heo khi ăn khẩu phần sau này. Những nguyên liệu này có thể là kháng sinh kích thích tăng trưởng (một số nơi vẫn sử dụng); kẽm oxít và đồng sunfat ở liều dược lý (hoặc các chất thay thế ở liều thấp hơn); các axít hữu cơ (liều cao); globulin miễn dịch trong thức ăn (từ protein trứng miễn dịch cao hay huyết tương động vật); và có thể là lactose. Nguồn protein tiêu hóa cao như bột cá, sữa tách béo và gluten lúa mì cũng có tác dụng kích thích sinh trưởng.Cân đối chi phí thức ănMặc dù khẩu phần chất lượng cao cho heo con rất hữu ích trong việc gia tăng năng suất tăng trưởng sau cai sữa, nhưng những lợi ích này có thể dễ dàng bị mất đi nếu chúng được cho ăn khẩu hần này trong thời gian quá dài (heo sẽ bị tiêu chảy với khẩu phần giàu đường/lactose) hay với lượng thức ăn cho heo cai sữa chưa phù hợp theo trọng lượng (hao phí). Tính toán chi phí thức ăn hợp lý với khẩu phần tốt hơn cho nhóm heo con nhẹ cân và giảm bớt ở nhóm nặng cân. Tuy nhiên, có một lỗi phổ biến thường không được để ý là heo nặng cân bú nhiều sữa và do đó chúng mất nhiều thời gian hơn so với nhóm heo nhẹ cân để thích nghi với khẩu phần ăn khô. Do vậy, đầu tiên nên cung cấp khẩu phần cân đối cho cả heo có trọng lượng nặng nhất.Sữa thay thếHeo cai sữa sẽ dễ dàng tiêu thụ sữa thay thế dạng lỏng, ấm ở nhiệt độ thích hợp. Cung cấp sữa thay thế trong 3 – 4 ngày có thể giúp tăng gấp đôi lượng chất khô ăn vào so với cho ăn thức ăn tập ăn dạng viên. Tuy nhiên, heo chỉ được cho ăn thức ăn lỏng có thể khó thích nghi với thức ăn khô trừ khi sữa thay thế được kết hợp với khẩu phần tập ăn chất lượng cao hoặc sữa dạng viên. Sữa thay thế tốt nhất chỉ nên dùng cho heo con nhẹ cân hay heo mất mẹ để giảm chi phí. Đầu tư vào thiết bị hoặc nhân công cũng cần phải được chú ý để đạt lợi ích tốt nhất từ sữa thay thế.Thức ăn lỏngỞ những trại chăn nuôi mà heo được cho ăn thức ăn khô, heo cai sữa có thể được cung cấp hỗn hợp cháo ấm gồm thức ăn và nước (50:50) trong hai hoặc ba ngày đầu sau cai sữa. Biện pháp này ngăn ngừa tình trạng đói và quan trọng hơn là mất nước ở heo. Trừ khi cháo được chế biến đặc dần (70:30), một số heo con có thể không thích nghi với thức ăn khô. Sự lắng đọng chất rắn trong các bát không phải là vấn đề nếu máng vẫn còn đầy nước. Kết quả thực tế cho thấy biện pháp này rất đáng khích lệ.Vẫn phải cho ăn tập ăn dù có hiệu quả hay khôngGiả sử heo con được cai sữa sau 21 ngày tuổi, thức ăn tập ăn nên bắt đầu ngay ở 4 ngày tuổi. Không nên tập ăn sớm quá, không phải vì heo sẽ không ăn thức ăn, mà do hầu hết các thức ăn như vậy chứa sucrose và trước độ tuổi này heo con không sử dụng sucrose, làm cho sucrose trở thành chất độc. Ngay cả khi heo con không ăn đủ thức ăn tập ăn để đem lại lợi ích rõ ràng khi cai sữa (trọng lượng cao hơn), nhưng kinh nghiệm của chúng với thức ăn tập ăn sẽ giúp chúng sớm quen với thức ăn khô trong các máng thông thường, giảm việc rải thức ăn trên đệm hay nhu cầu thức ăn lỏng. Tất nhiên, công thức thức ăn tập ăn đúng và phương pháp cho ăn phù hợp có thể sản xuất heo cai sữa có thể trọng tốt hơn.Sau hơn 25 năm nghiên cứu, lập khẩu phần, sản xuất và cố vấn về thức ăn cho heo con và cách cho ăn, tôi không thể chấp nhận rằng heo không chịu ăn và bị đói sau cai sữa, đó là lỗi do chúng ta cho ăn không đúng cách. Chúng ta nên lựa chọn đúng loại thức ăn dành cho heo con và tập huấn cho đội ngũ nhân viên chăn nuôi sao cho heo con bắt đầu ăn không phải trong vài ngày mà là vài giờ sau khi cai sữa. Theo wattagnet.com

LỰA CHỌN HỆ THỐNG CẤP NƯỚC CHO ĐÀN GÀ

Ai cũng biết nước là nguồn dinh dưỡng thiết yếu cho gà nhưng đa số không biết lượng nước cần thiết cho gà là bao nhiêu. Việc lựa chọn hệ thống cấp nước cũng rất quan trọng, nếu không quản lý tốt thì nước có thể là nguyên nhân gây lây lan dịch bệnh.Có hai loại hệ thống cấp nước. Loại đầu tiên là loại dạng kín đến khi gà uống thì nước mới tiếp xúc với không khí (hệ thống núm uống). Loại hai là loại hở nước đựng trong máng, luôn tiếp xúc với không khí. Dạng hở dễ lẫn cám và phân gà à nước dễ bị nhiễm khuẩn. Hệ thống cấp nước dạng kín (núm uống) có ưu điểm là đảm bảo vệ sinh hơn, có khả năng hạn chế dịch bệnh tốt hơn. Người quản lý cần phải chú ý xem hệ thông cấp nước có bị hư hỏng hay rỉ nước khiến nền chuồng bị ướt hay không?Quản lý không để chất độn chuồng bị ướt:Độ ẩm chất độn chuồng ở khoảng từ 20-25% là phù hợp. Nếu độ ẩm cao hơn mức này thì các loại khuẩn như E.coli, cầu trùng, Salmonella dễ gia tăng. Ngoài ra hơi nước bốc hơi cũng sẽ khiến chuồng trại lạnh hơn. Bề mặt chất độn chuồng bị ướt sẽ vón cục, cứng không phù hợp với sự sinh hoạt và ảnh hưởng tới sức khỏe gà. Chất độn chuồng bị ẩm sẽ khiến phân dễ phân hủy, phát sinh khí amoniac à ảnh hưởng tế bào biểu mô hô hấp. Nếu nồng độ ammoniac ở mức 5ppm thì gà đã dễ mắc các bệnh hô hấp. Ngược lại ờ nồng độ 5ppm thi mũi người không nhận biết được mùi. Con người chỉ nhận biết được khi khí ammoniac ở mức 25ppm. Nếu khí ammoniac ở mức 50-100ppm thì có thể gây mù mắt gà. Người quản lý nên thường xuyên kiểm tra độ ẩm của chất độn chuồng nhằm điều chỉnh độ cao và áp lực của núm uống. Nếu áp lực nước quá cao thì chất độn chuồng dễ bị ẩm. Áp lực nước thấp thì gà bị thiếu nước, giảm tăng trọng.Quản lý hệ thống cấp nước: Khi chất độn chuồng ẩm thì sẽ xuất hiện các triệu chứng viêm nhiễm lòng bàn chân, sưng phù ngực, viêm da. Khi gà mắc bệnh thì sẽ ảnh hưởng tới FCR cám, chậm lớn và tăng chi phí thuốc (phải sử dụng kháng sinh).Kiểm tra áp lực nước và núm uống có bị rỉ nước hay không. Nếu nắm rõ được độ ẩm của chất độn chuồng thì ta có thể dễ điều chỉnh lượng nước cung cấp.Phòng chống cặn bám trong ống nước: Phía trong đường ống nước thường bám một lớp màng sinh học (biofilm). Đặc biệt khi trong nước có vitamin, thuốc, đường thì đây là môi trường lý tưởng cho vi khuẩn phát triển. Trường hợp nếu áp lực nước khi xịt rửa qua yếu sẽ không làm bong tróc được lớp màng này.Lớp màng sinh học đóng trong ống nước sẽ là nơi tích tụ vi khuẩn và khiến vi khuẩn trong nước uống gia tăng. Khi gà uống nước bị nhiễm bẩn, với thân nhiệt của gà là 41,10C sẽ khiến vi khuẩn tăng nhanh à gà dễ mắc bệnh.Nước đã được sát trùng cũng có thể bị tái nhiễm bẩn. Một vi khuẩn E.coli ở nhiệt độ 320C trong vòng 24 tiếng có thể tăng tới 1000 tỷ vi khuẩn. Ta có thể sử dụng máy xịt cao áp phun xịt bên trong đường ống 1.5~3.0 bar (20~40 psi, kg/cm2 ). Ngoài ra nếu sử dụng chế phẩm H2O2 cũng giúp phân giải các dị vật và màng vi khuẩn trong ống. Tuy nhiên việc sử dụng chế phẩm H2O2 sẽ khiến nước có vị khác biệt à giảm lượng nước uống và cám ăn vào. Nếu quản lý nước uống cho gà tốt thì sẽ giúp gà khỏe mạnh, duy trì năng suất cao. Nguồn: channuoigiacam.com (Theo thepoultrysite)

Kỹ thuật phòng và chữa bệnh cho vịt

Sở hữu tổng đàn gia súc, gia cầm tốp đầu cả nước, Nghệ An phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung, ứng dụng công nghệ cao gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm.TH nhập khẩu đàn bò cho sản lượng và chất lượng sữa tốt nhất thế giới Năm rực sáng của nông nghiệp Nghệ An Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp Nghệ An cao nhất Bắc Trung Bộ Ngành chăn nuôi Nghệ An tiếp đà thắng lợi trong năm 2021. Ảnh: Việt Khánh. Ngành chăn nuôi Nghệ An tiếp đà thắng lợi trong năm 2021. Ảnh: Việt Khánh.Bước tiến Nghệ An là tỉnh có tổng đàn gia súc, gia cầm lớn, hệ thống các loại vật nuôi rất đa dạng. Số liệu thống kê năm 2021 cho thấy tổng đàn trâu, bò ước đạt 778.000 con; đàn lợn 1.000.000 con; gia cầm 30.000.000 con; tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 270.000 tấn; sản lượng sữa bò tươi 250.000 tấn; trứng 642.000 nghìn quả…Thành quả nêu trên không ngẫu nhiên mà có, nhất là trong bối cảnh khốn khó bủa vây (Dịch tả lợn Châu Phi, Lở mồm long móng, Covid-19…). Trên thực tế, dưới định hướng của Chính phủ và Bộ NN-PTNT, tỉnh Nghệ An và toàn ngành chăn nuôi đã lĩnh hội sâu sát, qua đó xây dựng lộ trình, kế hoạch bài bản và triển khai sâu rộng đến từng cơ sở.Đối diện với nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự nỗ lực của toàn ngành, bộ mặt chăn nuôi Nghệ An tiếp tục có nhiều dấu ấn khởi sắc. Ảnh: Việt Khánh. Đối diện với nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự nỗ lực của toàn ngành, bộ mặt chăn nuôi Nghệ An tiếp tục có nhiều dấu ấn khởi sắc. Ảnh: Việt Khánh.Những năm qua ngành chăn nuôi Nghệ An thực sự chuyển biến tích cực, năng suất và chất lượng các loại sản phẩm không ngừng nâng lên, đến nay đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung, tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị giai đoạn 2010-2020 đạt 5,97%/năm, riêng tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp năm 2020 đạt 47,55%. Những con số đưa ra dẫu khô khan nhưng đủ khẳng định quá trình tái cơ cấu ngành đang chuyển dịch đúng hướng, đảm bảo đủ các yếu tố của xu thế “Nông nghiệp 4.0”.Dù vậy không có nghĩa bức tranh tổng quan đều là màu hồng, bên cạnh những kết quả đạt được ngành chăn nuôi địa phương đang đối diện với không ít khó khăn lẫn thách thức, bao gồm: Hình thức nhỏ lẻ vẫn chiếm phần đa; dịch bệnh trên đàn vật nuôi diễn biến phức tạp; sản phẩm chăn nuôi quy mô chưa nhiều, giá trị gia tăng chưa cao. Nổi cộm hơn cả là quá trình tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, hình thức sản xuất chưa gắn sâu với giết mổ, chế biến và thị trường tiêu thụ.Những vấn đề, nút thắt nêu trên không dễ tháo gỡ nội trong một sớm một chiều, ngược lại đòi hỏi tỉnh Nghệ An và các cơ quan ban ngành, đơn vị chuyên môn phải có kế sách mang tính dài hơi thay vì nóng vội mà đốt cháy giai đoạn.

BỆNH GOUT

Bệnh gout trên gà chia làm hai loại: Gout nội tạng và bệnh gout khớp.Bệnh gút nội tạng được biểu hiện bằng sự lắng đọng urat trong ống thận và các lớp thanh mạc của tim, gan, mạc treo, túi khí hoặc phúc mạc. Các chất lắng đọng urat trông giống như một lớp bụi phấn trắng. Urat lắng đọng nội tạng nói chung là do suy thận. Các nguyên nhân có thể gây ra tình trạng này có thể là tắc nghẽn niệu quản, tổn thương thận hoặc mất nước.Bệnh gout khớp được đặc trưng bởi sự lắng đọng urat quanh khớp (tophi), đặc biệt là xung quanh các khớp ngón chân và bàn chân. Các khớp được mở rộng và ngón chân - dị dạng.1. NGUYÊN NHÂNChế độ ăn thừa đạm đặc biệt là đạm động vật như bột thịt.Thiếu vitamin A.Bệnh thận và độc tố của nấm.Dư thừa canxi >3% , dư thừa vitamin D3Độc tính Natri Bicacbonat2. TRIỆU CHỨNGCác khớp được mở rộng và ngón chân - dị dạng. chân sưng.Ngoài ra không có dấu hiệu lâm sàng nào.Tỷ lệ tử vong có thể tăng và tồn tại khoảng 2-4% hàng tháng trong thời kỳ sản xuất.Tỷ lệ chết toàn đàn bị ảnh hưởng nặng nề có thể lên tới 50%.3. BỆNH TÍCHThận sưng to, có đốm hoặc màu nâu, niệu quản căng do tích tụ chất màu trắng dính. Sự lắng đọng chất trắng như phấn trên màng tế bào và các cơ quan khác nhau của cơ thể.Sau khi mở các khớp bị ảnh hưởng, mô quanh khớp có màu trắng. Cũng có thể nhìn thấy một chất bán lỏng màu trắng, do cặn urat.Trường hợp mãn tính, có thể quan sát thấy kết tủa urat ở khí quản, mào, tích, vv4. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNHPhòng bệnhHạn chế các nguyên nhân gây bệnh gout trên gia cầmTăng lượng nước cho gà uống và bổ sung thêm vitamin A. 4% rỉ đường và thuốc lợi tiểu trong nước uốngSử dụng các loại acid hữu cơ như: PRODUCTIVE ACID SE  pha 1-2ml/ 1 lit nước uống giúp acid hóa nước tiểu ngăn chặn không cho tích tụ urat trong thận thêm, ngoài ra còn giúp kích thích gà uống nhiều nước hơnCung cấp thức ăn cân bằng cho gia cầmBổ sung các loại vitamin cho gà:PRODUCTIVE AD3E thành phần gồm vitamin A, D3, E liều với liều 1ml/2-10l nước uống, mỗi liệu trình 5-7 ngày AMILYTE thành phần gồm: vitamin A, D3, K3, E, B2, B12,B3, B5, … Liều dùng pha 2g/lít nước uống. PRODUCTIVE FORTE thành phần gồm: vitamin A, D3, E, PP, B1, B6. Liều dùng tiêm bắp cho gà, vịt đẻ liều 0,5cc/con/tháng. Hoặc pha nước uống cho gà con và gà giò 1cc/lít nước. VITROLYTE thành phần gồm: vitamin A, D3, E, K3, B12, Biotin, B3, B2, B5, B6, B1, .....Liều dùng pha nước uống 2-3G/Lit nướcThường xuyên sử dụng bổ gan thận: SORAMIN; hoặc LIVERCIN ; hoặc UMBROLIVER với liều 1ml/1-2 lít nướcTrị bệnhTìm nguyên nhân và điều trị dựa vào nguyên nhân đó. Tập chung vào các nguyên nhân hay gây ra gout như thiếu nước hoặc thiếu núm uống, tỉ lệ canxi bổ sung, độc tốc nấm mốc, lượng muối NaCl, thiếu vitamin A,… 

BỆNH SỤN HOÁ XƯƠNG BÀN CHÂN

Bệnh sụn hoá xương chày, xương bàn chân ở gà công nghiệp chủ yếu thấy xuất hiện ở gà nuôi thịt. Tỷ lệ bệnh 2-5% ít thấy chết.1. NGUYÊN NHÂNDo di truyền, đặc biệt ở một số dòng gà nuôi thịt.Do thức ăn thiếu Ca làm cho xương mềm và sụn hoá.2. TRIỆU CHỨNGThường biểu hiện ở gà thịt 3-6 tuần tuổi. Ở xương bàn chân và đầu xương chày thấy sưng to, gà đi lại khó khăn, chủ yếu nằm bẹp một chỗ.3. BỆNH TÍCHXương mềm, đầu xương ống chân và bàn chân sưng, chủ yếu là sụn mềm.4. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNHCần xem xét những dòng gà có di truyền về bệnh trên để loại trừ.Bổ sung vào thức ăn đủ lượng khoáng Ca, P, MN, Zn và vitamin D để phát triển bộ xương bình thường theo trọng lượng của cơ thể:CALPHO hoặc CANXIPRO với liều 1ml/1-2lit nước uống, cho uống 5-7 ngày/ đợt kết hợp PRODUCTIVE AD3E với liều 1ml/2-10l nước uống, mỗi liệu trình 5-7 ngàyChuồng trại thiết kế phải có ánh sáng buổi sáng chiếu lọt vào chuồng, để gà tiấp nhận được tia tử ngoại từ ánh sáng mặt trời, giúp cho sự chuyển hoá tiền vitamin D3 thành vitamin D3.Không nên trị bệnh khi bệnh đã bại liệt và xương đã bị sụn hoá.

BỆNH MỀM ĐỐT SỐNG

Bệnh thường thấy ở gà thịt giai đoạn 3-6 tuần tuổi với biểu hiện bại liệt do bị trật đốt sống ngực cuối. Tỷ lệ bệnh từ 1-2%, ít khi chết.1. NGUYÊN NHÂNDo bẩm sinh ở một số giống gà nuôi thịt.2. TRIỆU CHỨNGỞ giai đoạn tuần tuổi thứ 3 trở đi thấy gà đi cúm rúm bằng ngón chân. Cho đến tuần thứ 6 gà đi rất khó khăn và không giữ thăng bằng cho cơ thể. Sau đó bại liệt hoàn toàn.3. BỆNH TÍCHMổ khám ở tuần tuổi thứ 5,6,7 ở những gà có triệu chứng thấy đốt sống ngực bị trật một phần( nguyên nhân do áp lực trọng lượng cơ thể đè lên cột sống).4. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNHChọn những giống gà không bị bệnh trên để nuôi giống.Không điều trị được khi đã bại liệt.

BỆNH CÒI XƯƠNG

Đây là bệnh thường phổ biến ở gà giò, ít thấy ở gà con. Với đặc điểm tổn thương chủ yếu ở xương do hậu qủa thiếu chất Ca, P và vitamin D làm cho gà què quặt, xương biến dạng và phát triển kém.1. NGUYÊN NHÂNDo khẩu phần ăn thiếu Ca, P hoặc tỷ lệ Ca/P không cân bằng.Do khẩu phần ăn thiếu vitamin D hoặc chuồng nuôi thiếu ánh sáng nên vitamin D ở da của gà không chuyển thành vitamin D để điều tiết sự hấp thu Ca, P cho cơ thể.Do trộn thức ăn không đều các chất khoáng Ca, P. vitamin D trong thức ăn.Do khẩu phần ăn chứa lượng chát béo quá cao làm giảm khả năng hấp thụ anxi, photphoDo cơ thể gia cầm bị 1 số bệnh truyền nhiễm hay dinh dưỡng làm viêm đường tiêu hóa và teo tuyến tụy gây ảnh hưởng đến khả năng hấp thu canxi, photpho từ thức ăn vào cơ thể2. TRIỆU CHỨNGGà bệnh biểu hiện triệu chứng rối loạn vận động, què quặt và tiến đén chỉ nằm một chỗ. Trường hợp nặng khi đuổi gà đi lại khó khăn và biểu hiện trạng thái đau.Gà còi, lông mọc chậm, xù lông, sã cánhBệnh kéo dài thấy lông rối, khô, cơ thể mất nước, gà mổ lông lẫn nhau hoặc ăn những vật thể lạ.Ở gà đẻ đôi khi cũng bị nhưng biểu hiện ban đầu là đẻ non, đẻ giảm sau đó ngừng đẻ, bại liệt và dễ gãy chân.Trứng đẻ ra vỏ mềm, mỏng hoặc không có vỏ gà đẻ khi thiếu Ca thường đẻ non và mổ trứng ăn)Tỷ lệ trứng ấp nở thành công thấp3. BỆNH TÍCHPhần xương ống bị rỗ, bị cong và đầu xương bị sưng.Xương mềm dễ cắt bằng dao.Xương lưỡi hái và xương sườn cong, có những khối u ở phần giáp ranh giữa phân xương và sụn.4. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNHPhòng bệnhĐưa vitamin D vào khẩu phần ăn định kỳ cho gà theo nhu cầu của từng lứa tuổi( xem trong bệnh thiếu vitamin D).Đưa phần khoáng vi lượng Ca, P vào thức ăn theo nhu cầu từng lứa tuổi. có thể bổ sung bằng CALPHO hoặc CANXIPRO với liều 1ml/1-2lit nước uống, cho uống 5-7 ngày/ đợtChuồng nuôi phải có ánh sáng buổi sáng chiếu vào cho gà để tiếp nhận tia tử ngoại, nhằm chuyển tiền vitamin D thành vitamin D thành vitamin D cho gà. Hoặc Bổ sung vitamin cho con vật: PRODUCTIVE AD3E với liều 1ml/2-10l nước uống, mỗi liệu trình 5-7 ngàyCó thể cho gà vận động nhiều vào hơn để gà phát triển toàn diện bộ khung xương hơn.Đối với gà đẻ cần sử dụng lượng Canxi và Photpho nhiều hơn, nên trong quá trình nuôi cần để ý và cung cấp canxi thường xuyên hơnCung cấp đầy đủ vitamin cho đàn gà có thể sử dụng PRODUCTIVE AD3E hoặc EGG FOR YOU cho đàn vật nuôi với liều pha nước uống: 1g/1-2lit nướcTrị bệnhDùng vitamin D3 gấp 2-3 lần liều quy định pha trong thức ăn hoặc nước uống.Cũng có thể tiêm bắp ADE hoặc vitamin D3( như trong điều trị bệnh thiếu vitamin D và Ca). Đồng thời cho gà ăn tự do lượng Ca, P( Bột sò, bột xương), liên tục 5-7 ngày. Bổ sung bằng CALPHO với liều 1ml/1-2lit nước uống, cho uống 5-7 ngày/ đợt hoặc CANXIPRO với liều 1ml/ 1-2l nước cho uống 5-7 ngày điều trị

BỆNH MỆT MỎI CỦA GÀ ĐẺ CÔNG NGHIỆP

Bệnh CLF thường xảy ra ở gà đẻ công nghiệp được nuôi chủ yếu trên sàn hoặc trong lồng( không được tiếp xúc với đất).1. TRIỆU CHỨNGGãy xương là do dòng canxi bị suy giảm liên quan đến sản lượng canxi cao trong vỏ trứng. Gà đẻ có khả năng sản xuất trứng sớm trên 95% trong ít nhất 6 tháng, điều này còn gây áp lực lớn đối với việc duy trì lượng canxi đầy đủ giữa chế độ ăn, khung xương và ống dẫn trứng.Những con gà bị ảnh hưởng luôn được tìm thấy nằm nghiêng ở phía sau lồng. Vào thời điểm ban đầu bị tê liệt, gia cầm có vẻ khỏe mạnh và thường có một quả trứng có vỏ trong ống dẫn trứng và một buồng trứng đang hoạt động. Cái chết xảy ra do đói hoặc mất nước, bởi vì những con chim đơn giản là không thể tiếp cận thức ăn hoặc nước uống.2. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNHPhòng bệnhLập khẩu phần thức ăn có đủ luợng Ca, P và một số các nguyên tố vi luợng cùng vitamin các loại phù hợp theo tỷ lệ đẻ của từng giai đoạn.Luợng Ca đưa vào khẩu phần ăn cần phải cân đối với P theo tỷ lệ 4:1. Có thể cho ăn tự do lượng bột sò và bột xương theo tỷ lệ trên.Trong giai đoạn nhiệt độ môi trường cao, cho gà ăn ít thức ăn thì khẩu phần ăn cũng tăng tỷ lệ đạm cũng như lượng Ca, P.Đưa phần khoáng vi lượng Ca, P vào thức ăn theo nhu cầu từng lứa tuổi. có thể bổ sung bằng CALPHO hoặc CANXIPRO với liều 1ml/1-2lit nước uống, cho uống 5-7 ngày/ đợtBổ sung vitamin cho con vật: PRODUCTIVE AD3E với liều 1ml/2-10l nước uống, mỗi liệu trình 5-7 ngàyCung cấp đầy đủ vitamin cho đàn gà có thể sử dụng PRODUCTIVE AD3E hoặc EGG FOR YOU cho đàn vật nuôi với liều pha nước uống: 1g/1-2lit nướcTrị bệnhKhi gà mái có triệu chứng trên ta phải bổ xung ngay vào thức ăn lượng Ca theo nhu cầu của gà đẻ cao sản. Nếu gà nuôi ít, ta có thể chuyển gà từ trên chuồng nuôi lồng xuống đất cho gà chạy tự do và cho khẩu phần ăn tăng luợng khoáng Ca và vitamin ADE trong giai đoạn 2-3 tuần gà sẽ hồi phục bình thuờng. (Lượng Ca, P và vitamin ADE xem trong bệnh thiếu Ca, P, vitamin ADE). Thời cho gà ăn tự do lượng Ca, P( Bột sò, bột xương), liên tục 5-7 ngày. Bổ sung bằng CALPHO với liều 1ml/1-2lit nước uống, cho uống 5-7 ngày/ đợt hoặc CANXIPRO với liều 1ml/ 1-2l nước cho uống 5-7 ngày điều trịBổ sung vitamin cho con vật: PRODUCTIVE AD3E với liều 1ml/2-10l nước uống, mỗi liệu trình 5-7 ngày

BỆNH VIÊM THẬN SỚM Ở GÀ

Bệnh chỉ thấy xuất hiện ở gà con từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5. Gà bệnh nằm túm tụm một chỗ, lông xù, ăn kém và chết. Bệnh không lây lan trong đàn gà.Bệnh tích mổ ra thấy thận nhợt nhạt, sưng ống dẫn niệu và bên trong ống dẫn niệu chứa đầy urat trắng. Trong trường hợp nặng có thể thấy urat trắng phủ lên màng tim, màng gan, màng ruột và cơ bắp.Đây là một trong những bệnh mới, người ta chưa xác định rõ nguyên nhân gây bệnh. Vì vậy chưa có các biện pháp phòng và trị bệnh này.

TIÊU DIỆT KÍ SINH TRÙNG TRÊN HEO

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Thiệt hại của kí sinh trùng gây...

Tiềm năng, lợi thế chăn nuôi bò thịt, bò sữa của Thủ đô

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Là Thủ đô song Hà Nội vẫn...

DINH DƯỠNG CHO NÁI HẬU BỊ THỜI KÌ MANG THAI

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Sự phát triển của heo con ở...

QUẢN LÝ DINH DƯỠNG TRƯỚC VÀ SAU CAI SỮA ĐỂ GIẢM CHI PHÍ CÁM

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Vấn đề của những nước chăn nuôi...

NHU CẦU VITAMIN CỦA GÀ

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Để nuôi gia cầm thành công, người...

NHU CẦU KHOÁNG CỦA GÀ

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Để nuôi gia cầm thành công, người...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO SULPHONAMID

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
1. Triệu chứng Gà trúng độc Sulphonamid...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO FURAZOLIDON

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
1. Triệu chứng Khi dùng Furazolidon phòng...

BỆNH NGỘ ĐỘC THỨC ĂN DO ĐỘC TỐ AFLATOXIN

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO MUỐI

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Muối là một trong những thành phần...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO SELENIUM (Se)

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Selen là một trong những nguyên tố...

BỆNH DO TRÚNG ĐỘC KHÍ NH3

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Khí NH3  được sinh ra từ chất...

BỆNH TRÚNG ĐỘC KHÍ CO

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Lượng khí CO được sinh ra do...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO FORMALDEHYDE

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Formaldehyde hay còn gọi là formon. Dung...

BỆNH SƯNG GAN THẬN TRÊN GÀ

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh sưng gan và thận thường xảy...

BỆNH HỘI CHỨNG XUẤT HUYẾT VÀ PHÌ GAN

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh FLHS là biểu hiện một quá...

BỆNH DO SUY DINH DƯỠNG TRÊN GIA CẦM

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu hụt dinh dưỡng gây rối...

BỆNH THIẾU VITAMIN A

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Đặc điểm của bệnh thiếu vitamin A...

BỆNH THIẾU VITAMIN D

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin D trong đàn gà...

BỆNH THIẾU VITAMIN E

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin E thường hay gặp...

BỆNH THIẾU VITAMIN K

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin K ở gà có...

BỆNH THIẾU VITAMIN B1

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin B1 ở gà thể...

BỆNH THIẾU VITAMIN B2

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin B2 có đặc điểm...

BỆNH THIẾU VITAMIN B5

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu axit Pantothenic ở gia cầm...

BỆNH THIẾU AXIT NICOTINIC – VITAMIN B3

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu axit Pantothenic ở gia cầm...

BỆNH THIẾU PYRIDOXIN (VITAMIN B6)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đặc điểm của bệnh này là giảm...

BỆNH THIẾU BIOTIN (VITAMIN H)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà mắc bệnh thiếu Biotin có đặc...

BỆNH THIẾU AXIT FOLIC

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Axit folic hay còn gọi là vitamin...

BỆNH THIẾU CHOLINE

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Chất Choline còn được gọi là vitamin...

BỆNH THIẾU VITAMIN B12

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Vitamin B12 cần thiết cho sự phát...

BỆNH THIẾU SELENIUM

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu Selenium ở gà có đặc...

BỆNH THIẾU CANXI VÀ PHOTPHO (Ca, P)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Canxi và photpho là 2 nguyên liệu...

BỆNH THIẾU MANGAN (Mn)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Mangan được hấp thu qua đường tiêu...

BỆNH THIẾU MUỐI (NaCl)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
NaCl là một loại muối bao gồm...

BỆNH THIẾU KẼM (Zn)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Kẽm là một nguyên tố vi lượng...

BỆNH THIẾU (Mg)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Mg trong cơ thể động vật chiếm...

BỆNH DO ĐÓI TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh đói ở gà thường thể hiện...

BỆNH DO MẤT NƯỚC TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà bị thiếu nước hay mất nước...

BỆNH DO LẠNH TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà bị lạnh với biểu hiện đứng...

BỆNH DO NÓNG TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Nhiệt độ quá nóng trong chuồng nuôi...

BỆNH DO TỔN THƯƠNG TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đây là một bệnh nội ngoại khoa...

BỆNH THIẾU KALI TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Kali trong cơ thể có tác dụng...

BỆNH VIÊM THẬN SỚM Ở GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh chỉ thấy xuất hiện ở gà...

BỆNH MỆT MỎI CỦA GÀ ĐẺ CÔNG NGHIỆP

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh CLF thường xảy ra ở gà...

BỆNH CÒI XƯƠNG

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đây là bệnh thường phổ biến ở...

BỆNH MỀM ĐỐT SỐNG

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thường thấy ở gà thịt giai...

BỆNH SỤN HOÁ XƯƠNG BÀN CHÂN

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh sụn hoá xương chày, xương bàn...

BỆNH GOUT

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh gout trên gà chia làm hai...

Kỹ thuật phòng và chữa bệnh cho vịt

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Sở hữu tổng đàn gia súc, gia...

LỰA CHỌN HỆ THỐNG CẤP NƯỚC CHO ĐÀN GÀ

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Ai cũng biết nước là nguồn dinh...

7 CÁCH GIÚP TĂNG LƯỢNG THỨC ĂN ĂN VÀO Ở HEO CAI SỮA

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Nếu lượng thức ăn ăn vào tăng...

ĐỘC TỐ NẤM MỐC: CÁNH CỬA CHO CÁC BỆNH TRUYỀN NHIỄM.

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Ảnh hưởng trực tiếp của độc tố...

BỔ SUNG CHẤT ĐIỆN GIẢI CHO GÀ

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Không khí nóng gây thiệt hại rất...

CÁC BIỆN PHÁP GIÚP THỤ TINH NHÂN TẠO THÀNH CÔNG

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Thụ tinh nhân tạo có nhiều ưu...

QUẢN LÝ NÁI CAO SẢN

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Lý do khiến các trại tuy đã...

NUÔI DƯỠNG GÀ VÀO MÙA NÓNG

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Thông qua việc tạo và giải phóng...

VITAMIN VÀ NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA HEO

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Một trong những yếu tố quan trọng...

BỆNH TGE TRÊN HEO – TRANSMISSBLE GASTROENTERITIS OF SWINE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH LỞ MỒM LONG MÓNG – FOOT AND MOUTH DISEASE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH MỤN NƯỚC TRÊN HEO – SWINE VESICULAR DISEASE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH MỤN NƯỚC TRONG MIỆNG HEO – SWINE VESICULAR STOMATITIS

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH PED TRÊN HEO – PORCINE EPIDEMIC DIARRHAE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH ĐẬU HEO – SWINE POX

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH VIÊM NÃO NHẬT BẢN TRÊN HEO – SWINE JAPANESE B ENCEPHALOMYETIS

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH VIÊM NÃO DO VIRUS NIPAH TRÊN HEO – NIPAH ENCEPHALITIS IN PIG

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

HỘI CHỨNG CÒI CỌC TRÊN HEO – POST WEANING MULTI SYSTEMIC WASTING SYNDROM

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH SẢY THAI DO PARVOVIRUS TRÊN HEO – PARVOVIRUS DISEASE OF SWINE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH PPRS TRÊN HEO – PORCINE REPRODUCTIVE AND RESPYRATORY SYNDROME

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH GIẢ DẠI TRÊN HEO – AUJESZKY

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH CÚM HEO – HOG FLU

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH DỊCH TẢ CHÂU PHI – AFRICA SWINE FIVER

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH DỊCH TẢ HEO – HOG CHOLERA

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH SƯNG PHÙ ĐẦU TRÊN GÀ – AVIAN PNEUMOVIRUS (APV)

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

HỘI CHỨNG CÒI CỌC DO REOVIRUS – REO

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH CÚM GIA CẦM – AVIAN INFLUENZA (AI)

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH BẠI HUYẾT TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH KHẸC TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH HUYẾT TRÙNG TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH E. COLI TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH THƯƠNG HÀN TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm