

Tin tức


Qua phản ánh và khảo sát thực tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) nhận thấy nguy cơ các loại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm phát sinh và lây lan trong thời gian tới là rất cao. Tuy nhiên, báo cáo của các địa phương lại cho rằng dịch bệnh đang được kiểm soát tốt.
Theo báo cáo của các cơ quan quản lý chuyên ngành thú y địa phương, từ năm 2022 đến nay, các loại dịch bệnh nguy hiểm đã cơ bản được kiểm soát tốt.
Cụ thể, trên cả nước có hơn 25 ổ dịch cúm gia cầm do virus A/H5N1, A/H5N6 và A/H5N8 gây ra tại 22 tỉnh, thành phố, buộc tiêu hủy trên 100.000 con gia cầm; hơn 1.260 ổ dịch bệnh dịch tả lợn Châu Phi tại 54 tỉnh, thành phố, buộc tiêu hủy trên 60.000 con lợn. Ngoài ra, còn có hơn 260 ổ dịch bệnh viêm da nổi cục tại 17 tỉnh với 2.300 con trâu, bò mắc bệnh; 22 ổ dịch bệnh lở mồm long móng tại 8 tỉnh với 570 con gia súc mắc bệnh.
Tuy nhiên, theo phản ánh của người dân, doanh nghiệp chăn nuôi và kiểm tra thực tế tại một số địa phương, Bộ NN&PTNT nhận thấy tình hình dịch bệnh thực tế còn diễn biến phức tạp, có tình trạng chủ vật nuôi và một số địa phương chưa báo cáo chính xác, đầy đủ, nhất là đối với dịch tả lợn Châu Phi.
Bộ NN&PTNT đánh giá nguy cơ các loại dịch bệnh tiếp tục phát sinh và lây lan trong thời gian tới là rất cao.
Dịch tả lợn châu Phi còn phức tạp, nhưng một số địa phương có tình trạng báo cáo chưa chính xác
Trước tình trạng trên, Bộ NN&PTNT đề nghị Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo các sở, ngành, chính quyền các cấp của địa phương triển khai quyết liệt, đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật theo đúng quy định của Luật Thú y, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, các văn bản chỉ đạo của Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN&PTNT.
Bộ NN&PTNT yêu cầu các địa phương báo cáo kịp thời, đầy đủ, chính xác tình hình dịch bệnh từ cơ sở đến cấp xã, huyện, tỉnh và thực hiện nghiêm công tác báo cáo tình hình dịch bệnh động vật qua Hệ thống thông tin dịch bệnh động vật trực tuyến (VAHIS) theo đúng quy định; tổ chức kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp không báo cáo, giấu dịch và làm lây lan dịch bệnh.
Trong tháng 3, các địa phương phải tổ chức thực hiện Tháng tổng vệ sinh, khử trùng, tiêu độc môi trường; Khẩn trương rà soát, tổ chức tiêm vacxin phòng các bệnh, đặc biệt đối với các bệnh nguy hiểm trên vật nuôi như cúm gia cầm, lở mồm long móng, tai xanh, viêm da nổi cục, dại…
Bộ NN&PTNT cũng đề nghị các địa phương tổ chức ngăn chặn và xử lý nghiêm các trường hợp vận chuyển động vật, sản phẩm động vật trái phép qua biên giới; các trường hợp buôn bán, vận chuyển, giết mổ động vật, chế biến các sản phẩm không bảo đảm yêu cầu về phòng, chống dịch bệnh, an toàn thực phẩm.
Nguồn: Nhà chăn nuôi

BẢNG GIÁ HEO HƠI HÔM NAY GIÁ HEO NGÀY 22-2-2023
Tại khu vực miền Bắc, giá heo hơi hôm nay có hướng giảm từ 1.000 – 2.000 đồng/kg và dao động trong khoảng 49.000 - 51.000 đồng/kg. Theo đó, sau khi giảm 2.000 đồng/kg, giá heo hơi hôm nay tại Hà Nam về mức 49.000 đồng/kg – thấp nhất khu vực. Cùng giảm 2.000 đồng/kg, giá heo hơi tại Bắc Giang về mức 50.000 đồng/kg. Mức giá này cũng được ghi nhận tại Yên Bái, Lào Cai và Ninh Bình. Ghi nhận mức giảm 1.000 đồng/kg, giá heo hơi tại Hưng Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Tuyên Quang cùng về mức 51.000 đồng/kg. Các địa phương khác trong khu vực không ghi nhận sự biến động về giá.
Tương tự khu vực miền Bắc, tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên, giá heo hơi hôm nay giảm nhẹ và dao động trong khoảng 48.000 - 52.000 đồng/kg. Cụ thể, sau khi giảm 1.000 đồng/kg, giá heo hơi hôm nay tại Nghệ An về mức 48.000 đồng/kg, đây là mức giao dịch thấp nhất khu vực, đồng thời là mức thấp nhất cả nước.
Cùng giảm 1.000 đồng/kg, giá heo hơi tại tỉnh Hà Tĩnh về mức 49.000 đồng/kg, còn tại Thừa Thiên Huế đang được thu mua với giá 50.000 đồng/kg. Các địa phương khác không ghi nhận sự biến động về giá, trong đó, Lâm Đồng là địa phương có giá heo hơi cao nhất khu vực 52.000 đồng/kg.
Tại khu vực miền Nam, giá heo hơi hôm nay giảm nhẹ và dao động trong khoảng 50.000 - 53.000 đồng/kg. Trong đó, sau khi cùng giảm 1.000 đồng/kg, giá heo hơi tại hai tỉnh An Giang và Bến Tre chứng kiến giá heo hơi ở mức 52.000 đồng/kg. Các địa phương khác trong khu vực không ghi nhận sự biến động về giá, trong đó, giá heo hơi tại Tây Ninh tiếp tục được thu mua với giá 50.000 đồng/kg. Trong khi đó, 53.000 đồng/kg là mức giao dịch cao nhất khu vực đang được ghi nhận tại Đồng Tháp và Cà Mau. Các địa phương khác đang thu mua heo hơi với giá trong khoảng 51.000 - 52.000 đồng/kg.
Khu vực
Địa phương
Mức giá
Tăng/giảm
Miền Bắc
Bắc Giang
50.000
-2.000
Hưng Yên
51.000
-1.000
Thái Nguyên
51.000
-1.000
Phú Thọ
51.000
-1.000
Thái Bình
51.000
-1.000
Hà Nam
49.000
-2.000
Vĩnh Phúc
51.000
-1.000
Hà Nội
51.000
-1.000
Tuyên Quang
51.000
-1.000
Miền Trung – Tây Nguyên
Nghệ An
48.000
-1.000
Hà Tĩnh
49.000
-1.000
Thừa Thiên Huế
50.000
-1.000
Miền Nam
An Giang
52.000
-1.000
Bến Tre
52.000
-1.000

TÒA NHÀ CHỌC TRỜI 26 TẦNG CỦA TRUNG QUỐC SẴN SÀNG GIẾT MỔ 1 TRIỆU CON LỢN MỖI NĂM
Ở vùng ngoại ô phía nam Ngạc Châu, một thành phố thuộc tỉnh Hồ Bắc, miền trung Trung Quốc, một tòa nhà kiểu chung cư khổng lồ nhìn ra đường chính. Nhưng nó không dành cho nhân viên văn phòng hay gia đình. Hai "chung cư" cao 26 tầng, rộng 400.000m2 ở tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc) chính là các trang trại nuôi lợn khổng - một tòa nhà lớn nhất thế giới.
[video width="1920" height="1080" mp4="https://thuytoancau.vn/wp-content/uploads/2023/02/105842_1_00china-farm-video-3_wg_1080p.mp4"][/video]
Đây là câu trả lời của Trung Quốc đối với nhu cầu vô cùng lớn đối với thịt lợn, loại protein động vật phổ biến nhất ở nước này.
Trang trại mới có quy mô tòa nhà chọc trời bắt đầu sản xuất vào đầu tháng 10 khi công ty đứng sau cơ sở này – Hubei Zhongxin Kaiwei Modern Farming – nhận 3.700 con lợn nái đầu tiên vào trang trại.
Zhongxin Kaiwei là người mới trong lĩnh vực chăn nuôi lợn – và chăn nuôi. Nó khởi đầu là một nhà đầu tư xi măng, với nhiều nhà máy xi măng ở các tỉnh như Hồ Bắc và Hà Nam. Một trong số đó, Xi măng Hubei Xinshiji, nằm cạnh trang trại lợn mới.
Công ty cho biết ban đầu họ dự định đầu tư vào sản xuất thực phẩm chế biến sẵn, nhưng đã thay đổi quyết định sau sự sụt giảm của ngành xi măng và xây dựng ở Trung Quốc. Jin Lin, tổng giám đốc của công ty, cho biết công ty coi nông nghiệp hiện đại là một lĩnh vực đầy triển vọng và là cơ hội để sử dụng vật liệu xây dựng của chính mình để xây dựng trang trại lợn.
Theo tuyên bố trên tài khoản WeChat chính thức của công ty, trang trại lợn có hai tòa nhà. Đằng sau địa điểm hoạt động, một tòa nhà trông giống hệt nhau với quy mô tương đương sắp hoàn thành. Khi hoạt động hết công suất, chúng sẽ cung cấp một diện tích kết hợp là 800.000 mét vuông không gian, với sức chứa 650.000 động vật.
Trang trại trị giá 4 tỷ nhân dân tệ (473 triệu bảng Anh) có điều kiện kiểm soát khí đốt, nhiệt độ và thông gió, với động vật được cho ăn qua hơn 30.000 điểm cho ăn tự động chỉ bằng một nút bấm trong phòng điều khiển trung tâm.
Công ty cho biết chất thải từ lợn sẽ được xử lý và sử dụng để tạo ra khí sinh học, khí này có thể được sử dụng để phát điện và đun nước nóng trong trang trại. Công nhân sẽ được yêu cầu trải qua nhiều vòng khử trùng và xét nghiệm trước khi được phép vào và sẽ không thể rời khỏi địa điểm cho đến lần nghỉ tiếp theo – theo báo cáo mỗi tuần một lần .
“Thật không thể hiểu nổi,” một nông dân ngoài 50 tuổi sống ở ngôi làng đối diện trang trại nói với Guardian. Anh ấy nói rằng anh ấy lo lắng rằng sự gần gũi của trang trại có thể dẫn đến vấn đề về mùi khi nó hoạt động hết công suất.
Trung Quốc đã cố gắng nâng cấp sản xuất thịt lợn - quốc gia tiêu thụ khoảng một nửa số thịt lợn trên thế giới - sau khi mất tới 100 triệu con lợn vì dịch tả lợn châu Phi (ASF) từ năm 2018 đến năm 2020.
Thức ăn cho lợn được đưa vào trang trại trên hệ thống băng chuyền. Những người ủng hộ các trang trại cao tầng nói rằng chúng là cách vận hành thông minh hơn và giảm bớt áp lực lên tài nguyên đất. Ảnh: Tài liệu
Trong một chính sách được đưa ra vào năm 2019, Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc cho biết họ sẽ cho phép xây dựng các chuồng trại chăn nuôi cao tầng. Một thông báo được các nhà đầu tư hoan nghênh, trong đó có Kingkey Smart Agriculture, cho biết mô hình sản xuất cao tầng hiệu quả hơn, an toàn sinh học và thân thiện với môi trường.
“So với phương thức chăn nuôi truyền thống, trang trại chăn nuôi heo cao tầng thông minh hơn, mức độ tự động hóa và an toàn sinh học cao. Đồng thời, nó có lợi thế tiết kiệm tài nguyên đất”, Zhu Zengyong, giáo sư tại Viện Khoa học Động vật thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, cho biết mức độ phổ biến của chúng đã tăng lên sau khi dịch ASF bùng phát.
Chỉ riêng ở tỉnh Tứ Xuyên phía tây nam, tính đến năm 2020, 64 trang trại nhiều tầng đã được lên kế hoạch hoặc đang xây dựng. kết quả là cao hơn,” Zhu nói thêm.
Tuy nhiên, các chuyên gia khác cho biết các trang trại thâm canh quy mô lớn làm tăng khả năng bùng phát dịch bệnh lớn hơn bao giờ hết.
Matthew Hayek, trợ lý giáo sư nghiên cứu môi trường tại Đại học New York cho biết: “Các cơ sở chuyên sâu có thể làm giảm sự tương tác giữa động vật hoang dã và thuần hóa cũng như bệnh tật của chúng, nhưng nếu dịch bệnh xâm nhập vào bên trong, chúng có thể bùng phát giữa các loài động vật như cháy rừng”.
“Tôi đã nghe nhiều báo cáo về 'an toàn sinh học', 'hiệu quả' và 'tính bền vững'. Chúng tôi nghe câu chuyện tương tự cho các cơ sở trong nhà của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng cho thấy các cơ sở chuyên sâu này có bất kỳ lợi ích nào trong số đó trên thực tế,” ông nói.
Dirk Pfeiffer, chủ tịch giáo sư One Health tại Đại học Thành phố Hồng Kông, đồng ý và cho biết: “Mật độ động vật càng cao, nguy cơ lây lan và khuếch đại mầm bệnh truyền nhiễm, cũng như khả năng đột biến càng cao.
Ông nói: “Câu hỏi thậm chí còn quan trọng hơn có lẽ là liệu loại hình sản xuất này có phù hợp với nhu cầu hướng tới giảm tiêu thụ thịt hay không, khi xem xét mối đe dọa dường như không thể ngăn cản của sự tàn phá của biến đổi khí hậu”.
Theo Guardian

CÚM GIA CẦM CÓ PHẢI LÀ ĐẠI DỊCH TIẾP THEO?
Ngay khi chúng ta vừa thoát khỏi đại dịch COVID-19, một chủng cúm gia cầm chuyển từ âm ỉ sang sôi sùng sục. Điều này có thể ảnh hưởng đến con người như thế nào?
Chính phủ liên bang thông báo vào ngày 20 tháng 7 năm 2022 rằng họ đang tiến hành một cuộc điều tra đặc biệt về cái chết của hải cẩu ở Maine. Khoảng 150 con bị mắc cạn vào mùa hè năm ngoái và cúm gia cầm dường như là nguyên nhân chính. ROBERT F. BUKATY/BÁO CHÍ LIÊN KẾT
Ngay khi thế giới đang trỗi dậy sau ba năm xảy ra đại dịch COVID-19, một chủng cúm gia cầm có khả năng gây bệnh cao, đã chuyển từ âm ỉ sang sôi sục. Cúm gia cầm, một loại vi-rút biến đổi nhanh có nguồn gốc từ động vật, sẽ là khởi đầu của đại dịch tiếp theo hay khả năng lây truyền từ người sang người của vi-rút vẫn nằm ngoài tầm với?
Với hơn 150 triệu gia cầm và chim hoang dã bị giết hoặc tiêu hủy do chủng cúm này, được gọi là H5N1 , kể từ năm 2021, thế giới hiện đang phải đối mặt với đợt bùng phát cúm gia cầm lớn nhất trong lịch sử. Nhiễm trùng H5N1 ở người vẫn còn hiếm gặp, tổng cộng có 868 trường hợp kể từ năm 2003 và xảy ra do ăn phải hoặc hít phải vi rút từ gia cầm bị bệnh (Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh khuyến cáo rằng thịt gia cầm và trứng an toàn để ăn khi được nấu chín đúng cách ). Hiện tại, khả năng lây truyền từ người sang người được coi là thấp . Tuy nhiên, với mỗi lần lây nhiễm ở người, vi-rút có cơ hội biến đổi và có thể đạt được sự kết hợp thành công của những thay đổi di truyền cần thiết để giải phóng sự lây truyền qua đường hô hấp — chìa khóa khiến cúm gia cầm trở thành vi-rút gây đại dịch.
Từ H5N1 đến SARS-CoV — vi-rút gây bệnh COVID-19 — có một cảm giác đáng sợ về cách vi-rút có thể lây sang người từ động vật trong chuỗi cung ứng thực phẩm.
Gà và vịt đã cung cấp nguồn protein dồi dào và rẻ tiền cho con người qua các thời đại, kèm theo đó là các đợt bùng phát virus quy mô nhỏ từ những năm 1800 . Cúm gia cầm đã tiến hóa để trở nên độc hại ở ngỗng nhà vào năm 1996, gieo mầm cho một dòng dõi có khả năng giết chết gia cầm, chim hoang dã và thậm chí cả con người . Dòng H5N1 này lần đầu tiên được phát hiện ở miền nam Trung Quốc, trùng hợp với sự gia tăng lớn trong công nghiệp hóa gia cầm, và sự lây lan ban đầu của nó sang các quốc gia lân cận ở Đông và Nam Á dường như theo dõi chặt chẽ việc buôn bán gia cầm. Từ năm 2005 đến năm 2021, hơn 300 triệu gia cầm đã chết hoặc bị giết thịt trong nỗ lực dập tắt dịch cúm gia cầm, nhưng H5N1 hiện đã trở thành dịch lưu hành ở một số khu vực của Châu Á, Trung Đông, Châu Phi và gần đây là Châu Âu.
Sự xuất hiện của bệnh cúm gia cầm ở Bắc Mỹ vào cuối năm 2021 đã đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình tiến hóa và lây lan của vi rút. Đầu tiên, việc vi-rút xâm nhập vào New Brunswick, Canada , vào tháng 11 năm 2021 phù hợp với sự di chuyển của một nhóm các loài mòng biển, chim biển và ngỗng từ Bắc Âu. Trong khi cúm gia cầm đã từng xuất hiện ở Hoa Kỳ trước đó, thì vào năm 2014-2015, sự lây lan của vi-rút đã bị chặn lại do việc tiêu hủy gia cầm ở vùng Trung Tây.
Khoảng thời gian này, việc tiêu hủy 60 triệu con gà và gà tây từ California đến Maine có thể làm chậm quá trình lây truyền nhưng không ngăn chặn được sự lây lan của vi-rút. Trong số 1.000 loài chim hoang dã có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, hơn 140 loài hiện đã bị nhiễm H5N1, bao gồm các loài mang tính biểu tượng như đại bàng hói, diều hâu đuôi đỏ và các loài chim biển làm tổ, chẳng hạn như chim nhạn biển và nhạn biển hồng. Nếu vi-rút đang thích nghi với các loài chim hoang dã trên toàn cầu — một kịch bản sẽ khiến việc kiểm soát các đợt bùng phát trở nên vô cùng khó khăn — thì sự lây lan của dịch cúm gia cầm giữa các quốc gia có thể trở nên thường xuyên hơn.
H5N1 hiện có phạm vi vật chủ đã mở rộng ra ngoài khu vực chứa vi rút gia cầm của nó. Nhiễm trùng đã được báo cáo ở động vật có vú hoang dã , từ gấu xám, gấu trúc, linh miêu và chồn hôi, với cáo đỏ chiếm một nửa trong số 110 ca nhiễm bệnh xảy ra trên 17 tiểu bang của Hoa Kỳ. Chủ đề chung với các trường hợp động vật có vú là động vật ăn thịt thường sống đơn độc hoặc sống theo nhóm nhỏ và ăn thịt chim hoang dã. Các triệu chứng như mù lòa và mất khả năng phối hợp dẫn đến tử vong thường xảy ra ở động vật ăn thịt và trong khi quấy rối, mức độ nghiêm trọng của bệnh có thể làm giảm khả năng lây truyền. Tuy nhiên, các đợt bùng phát ở các loài động vật có vú sống thành đàn lớn như hải cẩu , cá heo , sư tử biển và tại một trang trại nuôi chồn hương duy nhất ở Tây Ban Nha đã làm dấy lên mối lo ngại về việc virus cuối cùng cũng có khả năng lây truyền sang người. May mắn thay, chúng tôi chỉ thấy các đột biến riêng lẻ chứ không phải hai đến ba đột biến cần thiết cho phép H5N1 tái tạo ở đường hô hấp trên thay vì sâu hơn trong phổi — một quá trình chuyển đổi sẽ mở ra cơ hội lây lan từ người sang người.
Nhiễm trùng ở người rất hiếm nhưng gây tử vong với tỷ lệ tử vong là 56% so với khoảng 1,1% đối với người Mỹ bị nhiễm COVID-19 . Các kho dự trữ vắc-xin cúm gia cầm ở Hoa Kỳ rất nhỏ, cung cấp sự bảo vệ cho 20 triệu cá nhân có nguy cơ phơi nhiễm nghề nghiệp cao nhất. Do COVID-19, công nghệ mRNA hiện tồn tại để giúp tăng quy mô sản xuất vắc-xin cho công chúng chống lại chủng H5N1 mới nhất. Đúng, sự mệt mỏi do đại dịch là có thật, nhưng bỏ qua mối đe dọa này cũng có thể phải trả giá đắt.
Nichola Hill là trợ lý giáo sư sinh học, người nghiên cứu về hệ sinh thái và sự tiến hóa của bệnh tại Đại học Massachusetts Boston.

VIỆT NAM ĐỨNG TOP 10 THẾ GIỚI VỀ SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI, THỦY SẢN
Theo thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, năm 2022 Việt Nam lọt top 10 thế giới( sản lượng 26,720 triệu tấn) về sản lượng thức ăn chăn nuôi, thủy sản trên toàn cầu.
Dự báo giá thức ăn chăn nuôi vẫn trên đà tăng.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho biết, theo báo cáo Triển vọng Nông sản Alltech năm 2023, Việt Nam đã có sự phục hồi mạnh mẽ về sản lượng thức ăn chăn nuôi vào năm 2022, với sản lượng đạt 26,720 triệu tấn, đứng thứ 8 thế giới. Việt Nam cũng lọt top 10 thế giới về sản lượng thức ăn chăn nuôi, thủy sản trên toàn cầu.
Top 10 thế giới bao gồm: Trung Quốc (260,739 triệu tấn), Mỹ (240,403 triệu tấn), Brazil (81,948 triệu tấn), Ấn Độ (43,360 triệu tấn), Mexico (40,138 triệu tấn), Nga (34,147 triệu tấn), Tây Ban Nha (31,234 triệu tấn), Việt Nam (26,720 triệu tấn), Argentina (25,736 triệu tấn) và Đức (24,396 triệu tấn).
10 quốc gia top đầu thế giới chiếm tổng sản lượng thức ăn chăn nuôi khoảng 64% và 4 quốc gia: Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Mỹ tiêu thụ 1 nửa lượng tiêu thụ thức ăn chăn nuôi toàn cầu.
Cũng theo báo cáo Triển vọng Nông sản Alltech năm 2023, bất chấp những thách thức kinh tế vĩ mô quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ chuỗi cung ứng, sản lượng thức ăn chăn nuôi toàn cầu vẫn ổn định vào năm 2022 ở mức 1,266 tỷ tấn (BMT) vào năm 2022, giảm chưa đến nửa phần trăm (0,42%) so với ước tính năm 2021.
Việt Nam đã có sự phục hồi mạnh mẽ về sản lượng thức ăn chăn nuôi vào năm 2022, lọt vào top 10 trước Argentina và Đức, đồng thời vượt qua Thổ Nhĩ Kỳ, quốc gia có báo cáo về sản lượng thức ăn chăn nuôi giảm.
Báo cáo Triển vọng Nông sản Alltech cũng chỉ ra, sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng ở một số khu vực, bao gồm Mỹ Latinh (1,6%), Bắc Mỹ (0,88%) và Châu Đại Dương (0,32%), trong khi Châu Âu giảm 4,67%, Châu Phi giảm 3,86% và Châu Á – Thái Bình Dương cũng giảm 0,51%.
Mặc dù sản lượng thức ăn chăn nuôi giảm nhẹ nhưng quốc gia sản xuất thức ăn chăn nuôi lớn nhất thế giới vẫn đứng đầu là Trung Quốc, tiếp theo là Mỹ và Brazil.
Nguồn: Tạp chí doanh nghiệp và tiếp thị

SỐ LƯỢNG TIÊU HỦY DO DỊCH CÚM GIA CẦM, DỊCH TẢ LỢN CÂU PHI VÀ HƠN 8.000 CON CỪU ĐÃ BỊ TIÊU HỦY DO DỊCH ĐẬU CỪU Ở TÂY BAN NHA—MỘT TUẦN THEO XU HƯỚNG DỊCH BỆNH ĐỘNG VẬT QUỐC TẾ (09-18 THÁNG 2 NĂM 2023)
Theo trang web chính thức của Bộ Nông nghiệp và Nông thôn ngày 16/2/2023, từ ngày 9 đến 15/2/2023, tổng số 117 ổ dịch tả lợn châu Phi xảy ra tại 7 quốc gia.
Trong đó, tại Singapore đã xảy ra 1 ổ dịch tả heo châu Phi, 1 con heo rừng mắc bệnh và chết.
Tổng cộng có 168 ổ dịch cúm gia cầm xảy ra ở 20 quốc gia , trong đó có 30 ổ dịch lây nhiễm từ gia cầm, trong khi số gia cầm chết hoặc tiêu hủy ở Bolivia và Pháp đã vượt quá 80.000 con.
Trong đó, 13 ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 đã xảy ra ở Bolivia, 99.000 con gia cầm mắc bệnh, 36.000 con chết và 170.000 con bị tiêu hủy;
Đã có 5 ổ dịch cúm gia cầm H5N1 thể độc lực cao bùng phát ở Pháp, 6.130 con gia cầm mắc bệnh, 172 con chết và 87.000 con bị tiêu hủy.
Ngoài ra, 1 vụ dịch đậu cừu đã xảy ra ở Tây Ban Nha, 480 con cừu bị nhiễm bệnh, 5 con chết và 8095 con cừu bị tiêu hủy.
Chi tiết như sau:
1. Dịch tả lợn châu Phi
Bốn ổ dịch tả heo châu Phi trên heo nhà xảy ra tại Moldova
Trong các ngày 9, 13 và 15 tháng 2, Moldova thông báo 4 đợt bùng phát dịch tả lợn châu Phi trên lợn nhà ở huyện Liêu Oa, 8 lợn trong nước đã mắc bệnh và chết.
51 ca dịch tả lợn châu Phi trên lợn rừng và 6 ca trên lợn nhà tại Serbia
Ngày 9/2, Serbia thông báo 51 trường hợp lợn rừng và 6 trường hợp dịch tả lợn châu Phi ở lợn nhà tại 4 nơi trong đó có quận Zajechar. .Cull.
Lợn rừng bùng phát dịch tả lợn châu Phi tại Singapore
Ngày 9/2, Singapore thông báo bùng phát dịch tả heo châu Phi trên đàn heo rừng tại công viên tự nhiên ở quận Tây Bắc và 1 con heo rừng đã chết vì nhiễm bệnh. Không có lợn sống hoặc lợn cưng ở Singapore.
Romania có 24 ca lợn rừng và 7 ca dịch tả lợn châu Phi trên lợn nhà
Ngày 10/2, Romania thông báo 24 trường hợp mắc bệnh sốt lợn châu Phi ở lợn rừng và 7 trường hợp lợn nhà tại 8 nơi trong đó có huyện Vaslui, 46 con lợn rừng mắc bệnh và chết, 19 con lợn nhà mắc bệnh và chết.
12 ổ dịch tả heo châu Phi trên heo rừng xảy ra ở Latvia
Ngày 14/2, Latvia thông báo có 12 ổ dịch tả lợn châu Phi bùng phát ở 3 nơi trong đó có thành phố Vizmi và 17 con lợn rừng đã mắc bệnh và chết.
11 ổ dịch tả heo châu Phi bùng phát ở Hungary
Ngày 14/2, Hungary thông báo có 11 đợt bùng phát dịch tả lợn châu Phi trên lợn rừng ở 4 nơi trong đó có Bang Pest, 12 con lợn rừng đã mắc bệnh và chết.
Dịch tả heo châu Phi bùng phát tại Cộng hòa Séc
Ngày 15/2, Cộng hòa Séc thông báo dịch tả lợn châu Phi bùng phát trên đàn lợn rừng tại Libetsk Oblast, 1 con lợn rừng đã mắc bệnh và chết.
2. Dịch cúm gia cầm
Hai ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở loài chim hoang dã xảy ra ở Slovenia
Ngày 9 tháng 2, Slovenia thông báo 2 đợt bùng phát cúm gia cầm H5N1 thể độc lực cao ở các loài chim hoang dã ở miền Trung Slovenia, và 3 loài chim hoang dã đã bị nhiễm bệnh và chết.
Năm ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở chim hoang dã xảy ra ở Thụy Điển
Vào ngày 9 và 14 tháng 2, Thụy Điển đã thông báo về 5 đợt bùng phát cúm gia cầm H5N1 thể độc lực cao ở chim hoang dã tại 4 nơi bao gồm tỉnh Västra Götland, và 5 loài chim hoang dã đã bị nhiễm bệnh và chết.
Một ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở loài chim hoang dã bùng phát ở Ý
Vào ngày 8 tháng 2, Ý đã thông báo về một đợt bùng phát cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở vùng Friuli Venezia Giulia, và 1 con chim hoang dã đã bị nhiễm bệnh và chết.
Bùng phát dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở loài chim hoang dã tại Cuba
Vào ngày 9 tháng 2, Cuba đã thông báo về một đợt bùng phát cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở loài chim hoang dã ở tỉnh Havana, và 5 con chim hoang dã đã bị nhiễm bệnh và chết.
Một ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 bùng phát ở Tây Ban Nha
Ngày 10/2, Tây Ban Nha thông báo về một đợt bùng phát cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở gia cầm tại Khu tự trị Catalonia với 6.000 con gia cầm mắc bệnh, 1.200 con chết và 7.800 con bị tiêu hủy.
Ba ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao phân nhóm H5N1 ở chim hoang dã xảy ra ở Thụy Sĩ
Vào ngày 10 và 13 tháng 2, Thụy Sĩ đã thông báo về 3 đợt bùng phát cúm gia cầm H5N1 gây bệnh cao ở các loài chim hoang dã ở bang Zurich và 7 loài chim hoang dã đã bị nhiễm bệnh và chết.
13 ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 bùng phát tại Bolivia
Ngày 10/2, Bôlivia ghi nhận 13 ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 tại tỉnh Cochabamba với 99.000 con gia cầm mắc bệnh, 36.000 con chết và 170.000 con bị tiêu hủy.
21 ổ dịch cúm gia cầm H5N1 phân nhóm độc lực cao bùng phát ở Đức
Vào ngày 9 tháng 2, Đức đã thông báo về 21 ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao phân nhóm H5N1 ở các loài chim hoang dã ở Hamburg và hai nơi khác, 77 loài chim hoang dã và gia cầm thả rông đã bị nhiễm bệnh và chết, 100 con đã bị tiêu hủy.
24 ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở chim hoang dã xảy ra tại Bỉ
Trong hai ngày 9 và 11 tháng 2, Bỉ thông báo có 24 ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao phân nhóm H5N1 ở chim hoang dã tại 2 nơi bao gồm cả vùng Flemish, 62 con chim hoang dã và gia cầm thả rông đã bị nhiễm và chết, 21 con bị tiêu hủy.
Bốn đợt bùng phát cúm gia cầm độc lực cao phân nhóm H5N1 đã xảy ra ở gia cầm và ba loài chim hoang dã ở Hoa Kỳ
Ngày 10/2, Hoa Kỳ thông báo 4 ổ dịch cúm gia cầm và 3 loài chim hoang dã phân nhóm H5N1 bùng phát dịch cúm gia cầm độc lực cao ở 6 nơi trong đó có Mississippi, 65.000 con gia cầm bị tiêu hủy và 4 con chim hoang dã bị nhiễm bệnh và chết .
Năm ổ dịch cúm gia cầm H5N1 phân nhóm độc lực cao xảy ra ở Canada
Vào ngày 10 tháng 2, Canada đã thông báo về 5 đợt bùng phát cúm gia cầm H5N1 ở Quebec và 103 con gia cầm đã bị tiêu hủy.
Hai ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở loài chim hoang dã xảy ra ở Romania
Vào ngày 10 tháng 2, Romania đã thông báo về 2 đợt bùng phát cúm gia cầm H5N1 thể độc lực cao ở các loài chim hoang dã tại Hạt Brasova và 2 loài chim hoang dã đã bị nhiễm bệnh và chết.
Một ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở loài chim hoang dã bùng phát ở Colombia
Vào ngày 8 tháng 2, Colombia đã thông báo về một đợt bùng phát cúm gia cầm độc lực cao phân nhóm H5N1 ở các loài chim hoang dã ở tỉnh Nariño. 32 con gia cầm thả rông đã bị nhiễm bệnh và chết, 3 con đã bị tiêu hủy.
Một ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 và một con gia cầm hoang dã xảy ra ở Hungary
Ngày 13 và 14/2, Hungary thông báo 1 ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 và 1 loài chim hoang dã và 1 loài gia cầm tại 2 nơi là Gyor-Moson-Sopron, 3 loài chim hoang dã mắc bệnh và chết, 149 con gia cầm nhiễm bệnh chết, 13.000 con bị tiêu hủy . .
Một đợt bùng phát cúm gia cầm độc lực cao H5N1 đã xảy ra ở gia cầm và 15 loài chim hoang dã ở Vương quốc Anh
Vào ngày 10 tháng 2, Vương quốc Anh thông báo rằng 1 ổ dịch cúm gia cầm và 15 loài chim hoang dã H5N1 phân nhóm gây bệnh cao đã xảy ra ở 3 nơi trong đó có Scotland . bị nhiễm bệnh, 27 con chết và 39 con bị tiêu hủy.
Một đợt bùng phát cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở các loài chim hoang dã đã xảy ra ở Chile
Vào ngày 10 tháng 2, Chile đã thông báo về một đợt bùng phát cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở các loài chim hoang dã ở vùng Bio-Bio. 22 loài chim hoang dã và gia cầm thả rông đã bị nhiễm bệnh, 10 con chết và 70 con bị tiêu hủy.
Năm ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 đã xảy ra ở gia cầm và 29 loài chim hoang dã tại Pháp
Ngày 10/2, Pháp thông báo 5 trường hợp gia cầm và 29 loài chim hoang dã bùng phát dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 tại 6 nơi bao gồm Côte d'Armor ở vùng Brittany . gia cầm hoang dã và gia cầm thả rông bị nhiễm bệnh, 379 con chết và 137 con bị tiêu hủy.
Một ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao phân nhóm H5N1 ở loài chim hoang dã đã xảy ra ở Nga
Vào ngày 14 tháng 2, Nga đã thông báo về một đợt bùng phát cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở loài chim hoang dã ở Cộng hòa Dagestan, và 5 con chim hoang dã đã bị nhiễm bệnh và chết.
Mười một đợt bùng phát cúm gia cầm độc lực cao phân nhóm H5N1 ở các loài chim hoang dã đã xảy ra ở Áo
Vào ngày 14 tháng 2, Áo đã thông báo về 11 đợt bùng phát cúm gia cầm H5N1 độc lực cao ở chim hoang dã tại 4 nơi bao gồm Lower Austria, và 15 loài chim hoang dã đã bị nhiễm bệnh và chết.
17 ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao ở chim hoang dã H5N1 xảy ra tại Cộng hòa Séc
Vào ngày 15 tháng 2, Cộng hòa Séc đã thông báo về 17 đợt bùng phát cúm gia cầm H5N1 gây bệnh cao ở các loài chim hoang dã ở 4 nơi bao gồm cả miền Trung Cộng hòa Séc.
3. Bệnh động vật khác
Bùng phát bệnh dại ở Slovakia
Vào ngày 8 tháng 2, Slovakia đã báo cáo một đợt bùng phát bệnh dại ở động vật hoang dã ở vùng Prešov và một con cáo đỏ hoang dã đã chết vì nhiễm bệnh.
Dịch đậu cừu bùng phát ở Tây Ban Nha
Vào ngày 8 tháng 2, Tây Ban Nha thông báo về một đợt bùng phát bệnh thủy đậu ở vùng Castilla-La Mancha, 480 con cừu bị nhiễm bệnh, 5 con chết và 8095 con cừu bị tiêu hủy.
Xuất hiện 5 ổ dịch lở mồm long móng SAT2 tại Iraq
Ngày 12/2, Iraq thông báo có 5 ổ dịch lở mồm long móng SAT2 tại 5 nơi trong đó có tỉnh Qadisiya, 1316 con trâu, bò, cừu mắc bệnh và 136 con chết.
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Nông thôn

SẴN SÀNG TÂM THẾ CHO 2023
Ngành chăn nuôi năm 2022 khép lại với vô vàn khó khăn nhưng vẫn giữ đà tăng trưởng tốt. Bước sang năm 2023 mục tiêu của ngành sẽ ra sao? Việc lường trước những khó khăn, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi điều này giúp ngành chăn nuôi tự tin vượt “sóng gió”, gặt hái thành công. Nhân dịp đầu Xuân Quý Mão 2023, Tạp chí Thế giới Gia cầm đã có cuộc trò chuyện cùng Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Tống Xuân Chinh để hiểu rõ hơn về sự chuẩn bị này.
PV: Ông đánh giá như thế nào về kết quả của ngành chăn nuôi Việt Nam trong năm 2022?
Phó Cục trưởng Tống Xuân Chinh: Năm 2022, ngành chăn nuôi nước ta phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển, đặc biệt là giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi (TĂCN) tăng cao trong khi giá sản phẩm chăn nuôi thiếu ổn định. Tuy nhiên với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Bộ NN&PTNT, Cục Chăn nuôi, các cơ quan trong Bộ, các cấp, ngành liên quan; Sự đồng lòng, quyết tâm của doanh nghiệp và người chăn nuôi, ngành chăn nuôi nước ta đã hoàn thành kế hoạch năm 2022 đề ra: Sản xuất đạt hơn 7 triệu tấn thịt hơi các loại, trong đó thịt heo trên 4,4 triệu tấn, thịt gia cầm khoảng 2 triệu tấn và thịt gia súc ăn cỏ trên 0,65 triệu tấn. Sản lượng trứng gia cầm đạt 18,3 tỷ quả. Tổng sản lượng sữa tươi nguyên liệu là 1,28 triệu tấn. Từ những kết quả này cho thấy, ngành chăn nuôi đã đáp ứng cơ bản các sản phẩm chăn nuôi cho gần 100 triệu dân Việt Nam, khách du lịch và xuất khẩu một phần sản phẩm tới các nước khác.
PV: Theo ông, bức tranh của ngành chăn nuôi nước ta sẽ ra sao trong năm 2023?
Phó Cục trưởng Tống Xuân Chinh: Trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay, bức tranh của ngành chăn nuôi Việt Nam trong năm 2023 vẫn có nhiều thách thức tương tự như năm 2022. Thách thức lớn nhất là giá tăng cao của các nguyên liệu TĂCN nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản xuất các sản phẩm chăn nuôi. Thách thức thứ hai là sức tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi yếu do thiếu việc làm, giảm thu nhập của người dân trong khi sức sản xuất chăn nuôi lại tăng cao, đặc biệt là chăn nuôi công nghiệp gắn với chuỗi giá trị của các doanh nghiệp lớn dẫn đến giá bán sản phẩm gặp khó khăn. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi trong khó khăn đó vẫn có những cơ hội to lớn khi có nhiều doanh nghiệp hàng đầu đáp ứng được các điều kiện để xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi như thịt, trứng gia cầm chế biến, mật ong và sản phẩm từ ong, yến và sản phẩm từ yến, giống gia cầm và nguyên liệu, TĂCN.
PV: Như ông vừa chia sẻ, giá nguyên liệu TĂCN sẽ tiếp tục là một trong những thách thức lớn với ngành chăn nuôi nước ta trong năm 2023. Vậy chúng ta đã lường trước và chuẩn bị gì cho điều này?
Phó Cục trưởng Tống Xuân Chinh: Về cơ bản các tổ chức quốc tế có uy tín về thương mại hóa nguyên liệu TĂCN đều đánh giá, năm 2023 không có nhiều cơ hội để hạ giá thành. Vì thế, trong nước, chúng ta đã và đang tập trung vào xây dựng các mô hình liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp chăn nuôi với các tổ chức sản xuất như tổ đội, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã để trồng các loại cây nguyên liệu sản xuất TĂCN như ngô, sắn, cỏ, khô sinh khối, dược liệu… cho chăn nuôi. Các mô hình này có cơ hội lớn để phát triển ở những địa phương có diện tích nông nghiệp lớn như Tây Nguyên, Đông Nam bộ. Song song với việc trồng trên cạn, chúng ta phải mở rộng nhanh diện tích trồng các loại rong biển có sinh khối lớn để sản xuất các loại nguyên liệu và chất tách chiết từ rong biển làm TĂCN. Đồng thời với việc chủ đồng trồng các loại cây TĂCN, nước ta có lợi thế lớn về nguồn tài nguyên tái tạo với gần 160 triệu tấn phụ phẩm công - nông nghiệp có thể thu gom, sơ chế, chế biến làm TĂCN hoặc các sản phẩm đầu vào cho ngành chăn nuôi khi ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ trong thu gom, bảo quản và công nghệ cao trong chế biến. Phấn đấu đến năm 2025, ngành sản xuất TĂCN công nghiệp ở Việt Nam lập lại thế cân bằng 50:50 giữa nguyên liệu nhập khẩu và sản xuất trong nước.
PV: Ngành chăn nuôi nước ta đặt ra những mục tiêu nào cho năm 2023, thưa ông?
Phó Cục trưởng Tống Xuân Chinh: Căn cứ vào Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1520/QĐ-TTg ngày 6/10/2020 và Đề án tái cơ cấu nông nghiệp, ngành chăn nuôi lập kế hoạch sản xuất cho năm 2023 với các tiêu sau: Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng khoảng 4,5 - 5% so năm 2022, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp (ngành hẹp) đạt mức 33 - 34%. Tổng sản lượng thịt hơi các loại đạt khoảng 7,27 triệu tấn, tăng 4,1%. Trong đó sản lượng thịt heo hơi đạt trên 4,5 triệu tấn, tăng 4%; Sản lượng thịt gia cầm đạt gần 2,1 triệu tấn, tăng 4,8%. Sản lượng trứng các loại khoảng 19 tỷ quả, tăng 3,8%. Sản lượng sữa tươi nguyên liệu đạt gần 1,38 triệu tấn, tăng 8%. Sản lượng mật ong là 30.000 tấn, tăng 7,1%. Sản lượng tổ yến đạt 95 tấn, tăng 5,6%. Sản lượng TĂCN công nghiệp đạt gần 21 triệu tấn, tăng 5% so năm 2022. Đây là những chỉ tiêu phấn đấu của các ngành chăn nuôi trong năm Quý Mão 2023.
PV: Để đạt được những mục tiêu này hẳn ngành chăn nuôi đã chuẩn bị những giải pháp cụ thể, ông có thể chia sẻ rõ hơn về điều này?
Phó Cục trưởng Tống Xuân Chinh: Để hoàn thành mục tiêu của năm 2023 đề ra ở trên, ngành chăn nuôi cần tập trung thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp chính sau: Một là, tiếp tục xây dựng và thực hiện hiệu quả thể chế ngành chăn nuôi. Hai là, nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển giống vật nuôi. Ba là, chủ động sản xuất một phần từ nguồn TĂCN có sẵn trong nước. Bốn là, tổ chức sản xuất gắn với thị trường, bảo đảm an toàn sinh học và an toàn thực phẩm. Năm là, ứng dụng khoa học, công nghệ và khuyến nông trong chăn nuôi. Sáu là, tăng cường chế biến, chế biến sâu gắn với xúc tiến thị trường thương mại. Bảy là, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào chăn nuôi theo chuỗi khép kín định hướng xuất khẩu. Và tám là, áp dụng kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi.
Trân trọng cảm ơn ông!
Nguồn: Sài Gòn Giải Phóng

CHĂN NUÔI TRÔNG ĐỢI THỨC ĂN NGOẠI
Việt Nam là nước nông nghiệp có tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2022 lên tới 53,22 tỷ USD (trong đó xuất siêu trên 8,5 tỷ USD) nhưng cũng phải nhập khẩu rất nhiều nguyên liệu, vật tư nông nghiệp và nông sản.
Liên tục phá kỷ lục nhập khẩu
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu để chế biến thức ăn chăn nuôi của Việt Nam tính đến hết tháng 11-2022 lên tới 5,16 tỷ USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2021… Thời điểm hiện tại, cơ quan hải quan chưa thống kê được lượng nhập khẩu tháng 12-2022, song các chuyên gia ước tính, tổng kim ngạch nhập khẩu cả năm 2022 có thể đạt 5,6 tỷ USD (tức vượt cả mức kỷ lục của năm 2021 với 4,93 tỷ USD).
Tuy nhiên, theo Cục Chăn nuôi (Bộ NN-PTNT), con số trên chỉ tính tổng lượng thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu chế biến cho gia súc lớn. Nếu tính chung cả nguyên liệu làm thức ăn gia cầm, thức ăn thủy sản và các nông sản nhập khẩu (một phần cũng để làm thức ăn chăn nuôi) như ngô (bắp), đậu tương, khô dầu đậu tương, tổng kim ngạch nhập khẩu trung bình mỗi năm tới gần 10 tỷ USD.
Lý giải con số kim ngạch nhập khẩu thức ăn chăn nuôi trong 5 năm trở lại đây liên tục tăng mà không giảm, ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, cho biết, đó là do tốc độ tăng trưởng và quy mô của ngành chăn nuôi ngày càng lớn, nhu cầu sử dụng thức ăn chăn nuôi tăng mạnh, trong khi nguồn nguyên liệu trong nước không đáp ứng đủ, diện tích ngô, lúa không tăng thêm.
Bộ NN-PTNT và Hội Nông dân Việt Nam tổ chức cho nông dân tham quan một mô hình trồng ngô chuyển gen để tăng năng suất tại tỉnh Thái Nguyên.
Bên cạnh đó, hiện nay có những loại chúng ta vẫn chưa thể sản xuất được, phụ thuộc hoàn toàn nhập khẩu như khô dầu đậu tương, khô dầu cọ, bột cá, bột thịt xương, bột thịt cá và các nguyên liệu bổ sung như vitamin, khoáng vi lượng, phụ gia, chất bổ trợ… Trong năm 2022, Việt Nam đã nhập khoảng 27 loại nguyên liệu, gồm cả những loại chúng ta tự chủ động được một phần (như ngô, cám ngô, cám gạo).
Ước tính, mỗi năm Việt Nam cần khoảng 33 triệu tấn thức ăn chăn nuôi, nhưng sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được 30 - 35% nên 65 - 70% còn lại phải trông chờ nhập khẩu. Về tình trạng này, ông Tống Xuân Chinh, Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi, cho biết: Hiện cả nước có 269 cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp, nhưng trong đó chỉ có 90 doanh nghiệp FDI. Đây là những doanh nghiệp, tập đoàn có tiềm lực, dây chuyền công nghệ hiện đại, công suất lớn. Còn lại, doanh nghiệp nội nhiều nhưng công nghệ còn lạc hậu, quy mô nhỏ lẻ, tỷ lệ hao hụt còn cao, chất lượng thiếu ổn định, giá thành cao…
Tăng cường vùng nguyên liệu mạnh
Theo các chuyên gia, mặc dù các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang chiếm giữ 60%-70% thị phần thức ăn chăn nuôi, nhưng rất tiếc nhiều năm qua, họ chỉ tập trung vào khâu sản xuất và thương mại mà không quan tâm nhiều tới xây dựng vùng nguyên liệu, dẫn đến thiếu hụt, phải phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu.
Do đó, để xây dựng một nền nông nghiệp ít rủi ro về chi phí liên tục tăng cao và đứt gãy chuỗi cung ứng do phụ thuộc, ông Dương Tất Thắng, Cục trưởng Cục Chăn nuôi, cho rằng, chúng ta cần sớm phát triển các vùng nguyên liệu thay thế tại các địa phương có lợi thế. Theo đề án của Bộ NN-PTNT, sẽ chuyển đổi những diện tích kém hiệu quả sang trồng ngô, sắn để làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi.
Tại hội nghị tổng kết chăn nuôi mới đây, ông Thắng cho biết: “Theo chỉ đạo của Bộ NN-PTNT, Cục Chăn nuôi cùng các đơn vị sẽ phối hợp các tập đoàn triển khai mô hình liên kết sản xuất thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tại một số tỉnh ở miền Trung và Tây Nguyên”. Ngày 5-1 vừa qua, Bộ NN-PTNT tiếp tục tổ chức hội thảo về các giải pháp xây dựng vùng trồng nguyên liệu tại Tây Nguyên. Theo ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt, Tây Nguyên là vùng rất thuận lợi để phát triển ngô, sắn làm thức ăn xanh sinh khối. Thời gian qua, Tập đoàn De Heus (Hà Lan) đã khảo sát vùng nguyên liệu tại 3 tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, cho thấy, ngô và sắn nếu được phát triển thành vùng nguyên liệu ở khu vực này sẽ giúp giảm áp lực từ nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Tập đoàn Mavin cũng cho biết, đang nghiên cứu, triển khai mô hình tổ hợp chăn nuôi quy mô lớn tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Kon Tum, Gia Lai, Nghệ An… sản xuất khép kín từ trồng nguyên liệu tới giết mổ và chế biến sản phẩm. Đây cũng là giải pháp để phát triển vùng nguyên liệu thay thế, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu dễ rủi ro khi đứt gãy chuỗi cung ứng.
Theo Tổ chức CropLife Việt Nam, trong cơ cấu thức ăn chăn nuôi, ngô và đậu tương chiếm tỷ trọng lớn nhất. Để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, Việt Nam nên phát triển sản phẩm ngô và đậu tương công nghệ sinh học để đảm bảo năng suất cao hơn so với các giống cũ. Tổng Thư ký Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam Trần Xuân Định cho biết, cả nước hiện có khoảng 942.00 ha ngô làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhưng có xu hướng giảm dần vì khó cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu từ các nước có năng suất cao gấp 2 - 4 lần như Mỹ, Brazil, Israel... Thực tế, nguồn nguyên liệu nhập khẩu vào Việt Nam để làm thức ăn chăn nuôi hiện nay chủ yếu là từ cây trồng chuyển gen (ngô, đậu tương, các loại khô dầu ngô, bông, đậu tương, cải dầu…).
Trong khi hiện nay, Việt Nam đã có đủ điều kiện để tiếp tục mở rộng diện tích vùng nguyên liệu mà ngô chuyển gen là một giải pháp. Việt Nam đã có chính sách về cây trồng công nghệ sinh học và chính thức cấp phép cho ngô chuyển gen được trồng thương mại từ năm 2015 đến nay. Tính đến năm 2021, tổng diện tích ngô công nghệ sinh học ở Việt Nam là khoảng 180.000 ha (hơn 20% tổng diện tích ngô cả nước). Dù vậy, trong 5 năm trở lại đây, việc cấp phép cho các giống ngô chuyển gen mới của Việt Nam chậm trễ và không nhất quán, gây ảnh hưởng đến việc đưa công nghệ hạt giống mới ra thị trường.
Nguồn: Sài Gòn Giải Phóng

“NÓNG” TÌNH TRẠNG TRÂU, BÒ NHẬP LẬU
“NÓNG” TÌNH TRẠNG TRÂU, BÒ NHẬP LẬU
Bảo vệ ngành chăn nuôi đại gia súc
Theo thông tin từ nhiều địa phương, từ đầu năm tới nay đã xuất hiện tình trạng vận chuyển lậu trâu, bò qua biên giới về tiêu thụ trong nước. Người dân phản ánh tình trạng trâu, bò nhập lậu qua biên giới với Lào, Campuchia tăng lên đáng kể. Nguyên do chủ yếu là chênh lệch giá cả. Giá thịt trâu tại Campuchia rẻ hơn 20 - 30% so giá thịt trâu trong nước.
Một tiểu thương cung cấp thịt trâu, bò tại TP. Hồ Chí Minh cho biết: “Nhiều người dân thích ăn thịt trâu, bò, nhất là khi các quán nướng, quán lẩu mọc lên khắp nơi. Thịt trâu, bò tiêu thụ khá mạnh, thậm chí có khi do thiếu nguồn cung nên người ta lấy thịt trâu giả thịt bò để bán tại các quán nướng”.
Chăn nuôi trâu bò, dù được khuyến khích nhiều năm gần đây song cũng chỉ mới đáp ứng được 40 - 45% nhu cầu tiêu thụ trong nước, còn lại phải nhập khẩu. Do chi phí vận chuyển tăng nhiều theo giá cả nhiên liệu trên thế giới nên nguồn cung cho thị trường trong nước càng thiếu hụt.
Mới đây, Hiệp hội Chăn nuôi gia súc lớn đã gửi công văn đề nghị cơ quan chức năng kiểm soát nhập lậu trâu, bò để phòng chống dịch bệnh và bảo vệ chăn nuôi trong nước.
Tập trung ngăn vận chuyển, buôn bán trái phép trâu, bò. Ảnh: Shutterstock
Ngày 7/12/2022, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến đã ký văn bản gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành gồm: Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Bình, Quảng Trị đề nghị tập trung chỉ đạo, tổ chức ngăn vận chuyển, buôn bán trái phép trâu, bò qua biên giới.
Cần nhiều giải pháp
Giá nhập khẩu thịt nói chung và thịt trâu, bò nói riêng đã tăng mạnh trong thời gian gần đây. Theo Tổng cục Hải quan, 10 tháng đầu năm 2022, Việt Nam đã nhập khẩu gần 545.000 tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 1,21 tỷ USD. Mặc dù lượng thịt nhập về giảm tới 11,9%, nhưng giá trị lại tăng 2,1% cùng kỳ năm 2021.
Thịt trâu, bò được nhập nhiều từ Ấn Độ. Trong 10 tháng đầu năm 2022, nhập khẩu thịt từ Ấn Độ đạt tới 418,63 triệu USD, tăng 51,2% về giá trị so cùng kỳ năm ngoái. Đơn cử tháng 10/2022, nhập khẩu thịt từ Ấn Độ tăng hơn 114% về lượng nhưng tăng tới gần 209% về giá trị so tháng 10/2021. Tính ra, giá nhập khẩu các sản phẩm thịt từ Ấn Độ tăng 44,3% so tháng 10/2021. Việc giá tăng đã khiến nhiều đối tượng nhập lậu thịt trâu, bò tiêu thụ kiếm lời. Không chỉ các tiểu thương buôn lậu trâu, bò qua đường biên mà một số doanh nghiệp cũng buôn lậu qua đường “chính ngạch”.
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, tháng 11/2022, tình hình chăn nuôi ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Ước tính, tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 11/2022 giảm 1,2%; Tổng số bò tăng 3,5% so cùng thời điểm năm 2021. Khó khăn của người chăn nuôi gia súc hiện nay là giá thức ăn tăng cao. Thời tiết trở lạnh cũng khiến cho việc chăn nuôi gia súc khó khăn, nguồn thức ăn khan hiếm. Nhiều hộ gia đình phải trồng thêm cỏ voi, ngô để nuôi trâu, bò trong thời tiết băng giá.
Để bảo vệ ngành chăn nuôi đại gia súc, ngoài việc ngăn chặn nạn buôn lậu trâu, bò qua biên giới cũng rất cần các biện pháp hỗ trợ người nuôi trâu, bò để chủ động nguồn cung trong nước, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Nguồn: Tạp chí gia cầm

XUẤT KHẨU CHĂN NUÔI… LỐI ĐÃ MỞ
Giá nguyên liệu thức ăn leo thang
Xung đột giữa Nga và Ukraine xảy ra từ cuối tháng 2/2022 đã khiến mùa màng tổn thất, cảng biển bị phong tỏa, các lệnh trừng phạt được áp đặt khiến giá ngũ cốc tăng vọt, kéo theo những lo ngại về một cuộc khủng hoảng lương thực. Năm 2022, Pháp, nước sản xuất ngũ cốc lớn nhất EU phải đối mặt với hạn hán làm sụt giảm sản lượng khoảng 18,5% so năm 2021. Argentina và Brazil cũng gặp nhiều trở ngại về thời tiết như khô hanh và sương giá ảnh hưởng sản lượng ngô. Tiến độ thu hoạch ngô niên vụ 2022 của Argentina cũng chậm hơn so dự kiến do thời tiết bất lợi. Ngoài ra, xung đột quân sự cũng châm ngòi cho cuộc khủng hoảng năng lượng tại châu Âu. Giá khí đốt và điện tăng vọt vào mùa hè 2022, làm gián đoạn hoạt động sản xuất thức ăn chăn nuôi và đứt gãy chuỗi cung ứng. Nhiều nhà máy sản xuất hạt dầu và trại chăn nuôi tại châu Âu đứng trước nguy cơ đóng cửa, sa thải công nhân và cắt giảm tối đa chi phí để duy trì hoạt động.
Ngành gia cầm “nhảy vọt”
Theo dự báo của FAO, tổng sản lượng thịt gia cầm toàn cầu năm 2022 đã tăng lên 138 triệu tấn, cao hơn 0,77% so năm 2021 và mức tiêu thụ đạt 137,5 triệu tấn, tăng 0,73%. Khối lượng xuất khẩu thịt gia cầm toàn cầu dự kiến tăng 16,2 triệu tấn vào năm 2022, trong khi nhập khẩu đạt 14,9 triệu tấn. Sau COVID-19 và lạm phát, người tiêu dùng có xu hướng sử dụng thực phẩm giá rẻ hơn, trong đó có thịt gà. Đây cũng là một trong những cú hích tăng trưởng vượt bậc của ngành gia cầm trong năm qua. Chỉ trong 2 thập kỷ, gia cầm đã trở thành mặt hàng chăn nuôi được tiêu thụ nhiều nhất thế giới, đặc biệt là ở các thị trường đang phát triển và mới nổi.
Dịch bệnh dai dẳng
Dịch tả heo châu Phi (ASF) và cúm gia cầm độc lực cao (HPAI) tiếp tục hoành hành tại nhiều vùng chăn nuôi khắp thế giới trong năm qua. Tuy nhiên, đây cũng là động lực để nhiều quốc gia nỗ lực phát triển giải pháp ngăn chặn dịch bệnh lây lan, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu các loại vaccine, chẳng hạn như vaccine cúm gia cầm của Anh. Vẫn cần thời gian để hoàn thiện các loại vaccine này, vì thế các biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt trong toàn bộ chuỗi sản xuất chăn nuôi vẫn được xem là công cụ hiệu quả nhất hiện nay.
Chăn nuôi heo đi xuống
Theo Rabobank, sản lượng thịt heo ở châu Âu và Anh tiếp tục đi xuống trong quý IV/2022 do áp lực biên lợi nhuận với mức giảm ít nhất 4%, trong đó Ba Lan, Đức, Đan Mạch và Anh là những khu vực có mức giảm lớn nhất. Số lượng hộ chăn nuôi heo tại Ba Lan tiếp tục giảm với tốc độ chưa từng có. Thực trạng này diễn ra tương tự khắp châu Âu khi ASF và chi phí đầu vào gia tăng khiến nhiều hãng chăn nuôi đứng bên bờ vực phá sản. Từ đầu năm 2022, có tới 43.000 trang trại của Ba Lan bị thanh lý, có nghĩa là trung bình mỗi ngày có 76 trại nuôi heo phải ngừng hoạt động. Ngay cả khi dịch ASF diễn biến khả quan hơn cũng không thể đảo ngược xu hướng tiêu cực này. Tình hình chăn nuôi heo tại châu Á ổn định nhưng người chăn nuôi vẫn phải cảnh giác cao độ với dịch bệnh nguy hiểm.
Khủng hoảng sữa bò
Nắng nóng và hạn hán đã gây căng thẳng cho đàn bò sữa khắp thế giới, làm cạn kiệt sản lượng sữa và đe dọa nguồn cung mặt hàng này. Tại Australia, sản lượng sữa năm 2022 giảm gần nửa triệu tấn do nông dân bỏ trang trại sau nhiều năm chịu áp lực từ các đợt nắng nóng. Còn ở Ấn Độ, nông dân nuôi bò ở quy mô nhỏ cũng giảm dần các khoản đầu tư mua thiết bị làm mát cho trang trại. Tại Pháp, các hãng sữa đã tạm dừng sản xuất một loại pho mát chất lượng cao do những cánh đồng trở nên khô cằn, khiến đàn bò không có cỏ để gặm. Tại Đức, nhiều công ty sữa bò quy mô lớn cũng đã chuyển sang sản xuất năng lượng sinh học. Xu hướng thu hẹp sản xuất còn tiếp diễn trong các năm tới do các quy định khắt khe về môi trường. Rabobank cho biết: “Biến đổi khí hậu làm tăng thêm sự bất ổn cũng như thay đổi trong nguồn cung sữa và điều này tác động trực tiếp đến tình trạng mất an ninh lương thực thế giới”.
Nguồn: Tạp chí gia cầm

TRONG THÁCH THỨC CÓ CƠ HỘI
Dù còn nhiều thách thức song những tín hiệu vui, tích cực vẫn hé lộ. Nếu biết khắc phục khó khăn, tận dụng và khai thác tốt lợi thế, ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ đón nhận nhiều thành công trong năm 2023.
Thế giới sáng tối đan xen
Năm 2022 trôi qua với nhiều biến động cho các ngành sản xuất, trong đó có ngành chăn nuôi. Do tác động của hàng loạt yếu tố ngoại cảnh như đại dịch COVID-19, chiến sự giữa Nga và Ukraine, một số dịch bệnh như đậu mùa khỉ, sốt xuất huyết bất ngờ bùng phát ở mức đáng báo động... khiến giá cả leo thang, đặc biệt là giá nguyên, nhiên liệu, lương thực, thực phẩm tăng cao đã dẫn tới một cuộc lạm phát ở mức cao nhất trong vài chục năm gần đây xảy ra ở hầu hết các nước trên thế giới. Giá cả hầu hết các sản phẩm chăn nuôi như heo, bò và gia cầm đều tăng với tốc độ gần bằng hoặc cao hơn giá thành sản xuất.
Bên cạnh những cơ hội, ngành chăn nuôi toàn cầu dự báo cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong năm 2023. Ảnh: Shutterstock
Bước sang năm 2023, hầu hết các dự báo đều cho thấy, bên cạnh những mảng màu sáng tích cực còn đan xen những mảng màu tối gây cản trở cho ngành chăn nuôi toàn cầu. Theo dự báo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), với ngành heo, sản lượng thịt heo toàn cầu được sẽ tăng 1% vào năm 2023 lên 111 triệu tấn. Nguyên nhân chủ yếu là do Trung Quốc, quốc gia chiếm 47% sản lượng thế giới dự kiến sẽ sản xuất 52 triệu tấn thịt, tăng 2% so năm 2022 (51 triệu tấn). Sản lượng thịt heo của Mỹ sẽ tăng 1% lên 12,4 triệu tấn do sản lượng ngũ cốc khiến giá thức ăn tăng, mặt khác các trang trại có xu hướng kéo dài thời gian xuất chuồng nên khối lượng heo hơi tăng hơn khoảng 10%. Mặc dù sản lượng thịt heo toàn cầu được dự báo sẽ tăng trong năm 2023, nhưng xuất khẩu lại được cho là sẽ giảm 1,6%, xuống 10,5 triệu tấn. Điều này chủ yếu là do Trung Quốc sẽ giảm nhập khẩu vì nguồn cung trong nước đã được cải thiện. Xuất khẩu của EU được dự báo sẽ giảm 3,6% do công tác vận chuyển thịt heo sang Trung Quốc gặp khó khăn và sản lượng trong khối giảm. Đối với gà: Sản lượng thịt gà toàn cầu dự kiến sẽ tăng 2% vào năm 2023, đạt 102,7 triệu tấn. Phần lớn các nhà sản xuất gia cầm trên thế giới (ngoại trừ Trung Quốc) dự kiến sẽ có lãi trong năm tới, trong đó Brazil là quốc gia có tăng trưởng đáng kể nhất. Xuất khẩu thịt gà toàn cầu dự báo sẽ tăng 3,7% vào năm 2023 lên 14,1 triệu tấn.
Đối với bò: Sản lượng thịt bò toàn cầu dự báo giảm nhẹ vào năm 2023 xuống còn 59,2 triệu tấn. Mặc dù sản lượng sẽ tăng ở một số nước như Trung Quốc, Brazil và Australia, nhưng sẽ giảm ở Mỹ và EU. Xuất khẩu toàn cầu cũng được dự báo giảm 1,2% vào năm 2023 xuống còn 12,1 triệu tấn. Nguyên nhân chủ yếu là do Trung Quốc sẽ giảm nhập khẩu thịt bò trong năm tới.
Dự báo sản lượng và thị trường thịt heo toàn cầu 2023 - Nguồn: FAS - USDA
Việt Nam sẽ ra sao?
Theo Cục Chăn nuôi, mục tiêu của ngành chăn nuôi nước ta năm 2023: Giá trị sản xuất tăng 4,5 - 5% so năm 2022. Tổng sản lượng thịt hơi các loại đạt khoảng 7,27 triệu tấn, tăng 4,1%. Trong đó, sản lượng thịt heo hơi tăng 4%; Sản lượng thịt gia cầm tăng 4,8%. Sản lượng trứng các loại tăng khoảng 3,8%. Sản lượng sữa tăng khoảng 8%. Sản lượng mật ong tăng khoảng 7,1%. Sản lượng tổ yến tăng khoảng 5,6%. Sản lượng thức ăn chăn nuôi (TĂCN) công nghiệp quy đổi đạt trên 21 triệu tấn, tăng 5% so năm 2022
Để đạt được mục tiêu trên, bên cạnh những cơ hội, ngành chăn nuôi còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài các thách thức chung, có tính toàn cầu hiện vẫn chưa thể khắc phục như thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường và thiếu quỹ đất cho phát triển chăn nuôi, ngành chăn nuôi còn đối mặt với các khó khăn hiện hữu như năng suất thấp, chăn nuôi nhỏ lẻ, giá thành cao, sức cạnh tranh yếu… Trong khi đó, cuộc cạnh tranh về chất lượng và giá cả sản phẩm trong nước với hàng nhập khẩu dự báo sẽ quyết liệt hơn vì nhiều hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký với các nước sẽ có hiệu lực đầy đủ vào năm tới. Mặt khác, tình trạng lạm phát trong nước dự báo sẽ còn tăng vào những tháng đầu năm, nếu không kiềm chế được, tỷ giá USD/VND tăng sẽ kéo theo giá nhập khẩu nguyên liệu sản xuất TĂCN tăng do Việt Nam phải nhập khẩu hơn 70% nguyên liệu từ nước ngoài. Ngoài ra, chiến sự giữa Nga và Ukraine, tăng lạm phát tăng ở nhiều nước, đặc biệt là những nước xuất khẩu nguyên liệu thức ăn như Mỹ, Brazil, Mexico... còn diễn biến phức tạp, khó đoán định nên có thể ảnh hưởng đến giá TĂCN trong nước trong năm tới.
Tuy nhiên, trong thách thức có cơ hội: Theo dự báo của nhiều chuyên gia, nhu cầu tiêu thụ thịt trong nước dự kiến sẽ tăng 5 - 7% so năm 2022 vì thu nhập thực tế của người dân tăng nhờ Chính phủ tăng lương cơ bản thêm 20,8% vào giữa năm 2023. Mặt khác, lượng khách du lịch quốc tế dự kiến sẽ phục hồi 100% trong quý II/2023, kéo theo sự phục hồi mạnh mẽ của dịch vụ giải trí, lưu trú và ăn uống. Ngoài ra, các chuyên gia phân tích cho rằng, các cơ sở chăn nuôi sẽ ghi nhận mức tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận tích cực trong 2023 do nguồn cung thịt các loại dự báo sẽ giảm do nhiều hộ chăn nuôi vẫn chưa mạnh dạn tái đàn. Giá TĂCN sau khi đạt đỉnh vào quý II/2022 đã quay đầu giảm từ quý III/2022 và dự kiến sẽ giảm tiếp trong năm tới do nhu cầu tiêu thụ TĂCN toàn cầu giảm, mặt khác nguồn cung nguyên liệu đã được phục hồi do Ukraine đã xuất khẩu được lương thực sau một thời gian dài ùn tắc. Thêm một tín hiệu tích cực nữa đó là giá phân bón đã hạ nhiệt, góp phần tăng năng suất và sản lượng ngô, đậu tương toàn cầu, giúp giảm áp lực về giá. Cơ hội xuất khẩu thịt và sản thịt các loại dự báo sẽ thuận lợi hơn vì các doanh nghiệp FDI thời gian qua đã đầu tư nhiều dự án chế biến sâu và sẽ có hàng vào năm tới. Xuất khẩu tiểu ngạch dự báo cũng sẽ có nhiều lợi thế trong năm tới. Tóm lại, trong thách thức vẫn còn nhiều cơ hội cho ngành chăn nuôi nước ta bứt tốc trong năm 2023.
Nguồn: Tạp chí gia cầm

CHĂN NUÔI THẾ GIỚI NĂM 2022: 5 VẤN ĐỀ NỔI BẬT
Giá nguyên liệu thức ăn leo thang
Xung đột giữa Nga và Ukraine xảy ra từ cuối tháng 2/2022 đã khiến mùa màng tổn thất, cảng biển bị phong tỏa, các lệnh trừng phạt được áp đặt khiến giá ngũ cốc tăng vọt, kéo theo những lo ngại về một cuộc khủng hoảng lương thực. Năm 2022, Pháp, nước sản xuất ngũ cốc lớn nhất EU phải đối mặt với hạn hán làm sụt giảm sản lượng khoảng 18,5% so năm 2021. Argentina và Brazil cũng gặp nhiều trở ngại về thời tiết như khô hanh và sương giá ảnh hưởng sản lượng ngô. Tiến độ thu hoạch ngô niên vụ 2022 của Argentina cũng chậm hơn so dự kiến do thời tiết bất lợi. Ngoài ra, xung đột quân sự cũng châm ngòi cho cuộc khủng hoảng năng lượng tại châu Âu. Giá khí đốt và điện tăng vọt vào mùa hè 2022, làm gián đoạn hoạt động sản xuất thức ăn chăn nuôi và đứt gãy chuỗi cung ứng. Nhiều nhà máy sản xuất hạt dầu và trại chăn nuôi tại châu Âu đứng trước nguy cơ đóng cửa, sa thải công nhân và cắt giảm tối đa chi phí để duy trì hoạt động.
Ngành gia cầm “nhảy vọt”
Theo dự báo của FAO, tổng sản lượng thịt gia cầm toàn cầu năm 2022 đã tăng lên 138 triệu tấn, cao hơn 0,77% so năm 2021 và mức tiêu thụ đạt 137,5 triệu tấn, tăng 0,73%. Khối lượng xuất khẩu thịt gia cầm toàn cầu dự kiến tăng 16,2 triệu tấn vào năm 2022, trong khi nhập khẩu đạt 14,9 triệu tấn. Sau COVID-19 và lạm phát, người tiêu dùng có xu hướng sử dụng thực phẩm giá rẻ hơn, trong đó có thịt gà. Đây cũng là một trong những cú hích tăng trưởng vượt bậc của ngành gia cầm trong năm qua. Chỉ trong 2 thập kỷ, gia cầm đã trở thành mặt hàng chăn nuôi được tiêu thụ nhiều nhất thế giới, đặc biệt là ở các thị trường đang phát triển và mới nổi.
Dịch bệnh dai dẳng
Dịch tả heo châu Phi (ASF) và cúm gia cầm độc lực cao (HPAI) tiếp tục hoành hành tại nhiều vùng chăn nuôi khắp thế giới trong năm qua. Tuy nhiên, đây cũng là động lực để nhiều quốc gia nỗ lực phát triển giải pháp ngăn chặn dịch bệnh lây lan, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu các loại vaccine, chẳng hạn như vaccine cúm gia cầm của Anh. Vẫn cần thời gian để hoàn thiện các loại vaccine này, vì thế các biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt trong toàn bộ chuỗi sản xuất chăn nuôi vẫn được xem là công cụ hiệu quả nhất hiện nay.
Chăn nuôi heo đi xuống
Theo Rabobank, sản lượng thịt heo ở châu Âu và Anh tiếp tục đi xuống trong quý IV/2022 do áp lực biên lợi nhuận với mức giảm ít nhất 4%, trong đó Ba Lan, Đức, Đan Mạch và Anh là những khu vực có mức giảm lớn nhất. Số lượng hộ chăn nuôi heo tại Ba Lan tiếp tục giảm với tốc độ chưa từng có. Thực trạng này diễn ra tương tự khắp châu Âu khi ASF và chi phí đầu vào gia tăng khiến nhiều hãng chăn nuôi đứng bên bờ vực phá sản. Từ đầu năm 2022, có tới 43.000 trang trại của Ba Lan bị thanh lý, có nghĩa là trung bình mỗi ngày có 76 trại nuôi heo phải ngừng hoạt động. Ngay cả khi dịch ASF diễn biến khả quan hơn cũng không thể đảo ngược xu hướng tiêu cực này. Tình hình chăn nuôi heo tại châu Á ổn định nhưng người chăn nuôi vẫn phải cảnh giác cao độ với dịch bệnh nguy hiểm.
Khủng hoảng sữa bò
Nắng nóng và hạn hán đã gây căng thẳng cho đàn bò sữa khắp thế giới, làm cạn kiệt sản lượng sữa và đe dọa nguồn cung mặt hàng này. Tại Australia, sản lượng sữa năm 2022 giảm gần nửa triệu tấn do nông dân bỏ trang trại sau nhiều năm chịu áp lực từ các đợt nắng nóng. Còn ở Ấn Độ, nông dân nuôi bò ở quy mô nhỏ cũng giảm dần các khoản đầu tư mua thiết bị làm mát cho trang trại. Tại Pháp, các hãng sữa đã tạm dừng sản xuất một loại pho mát chất lượng cao do những cánh đồng trở nên khô cằn, khiến đàn bò không có cỏ để gặm. Tại Đức, nhiều công ty sữa bò quy mô lớn cũng đã chuyển sang sản xuất năng lượng sinh học. Xu hướng thu hẹp sản xuất còn tiếp diễn trong các năm tới do các quy định khắt khe về môi trường. Rabobank cho biết: “Biến đổi khí hậu làm tăng thêm sự bất ổn cũng như thay đổi trong nguồn cung sữa và điều này tác động trực tiếp đến tình trạng mất an ninh lương thực thế giới”.
Nguồn: Tạp chí gia cầm

2023: CHĂN NUÔI SẠCH, XANH VÀ SỐ HÓA
Tăng trưởng kéo theo ô nhiễm môi trường với 15% khí thải nhà kính toàn cầu cùng rủi ro an toàn thực phẩm và dịch bệnh vẫn là những thách thức buộc ngành chăn nuôi năm 2023 và các năm tiếp theo phải đổi mới theo hướng xanh, sạch và số hóa.
Số hóa
Những cải tiến công nghệ chăn nuôi nhiều năm qua chú trọng nhiệm vụ tăng chất lượng và số lượng dữ liệu trong các hệ thống chăn nuôi. Các doanh nghiệp trẻ như HerdDogg, Cowlar và SmartBow (Mỹ) đã nghiên cứu thẻ đeo tai hoặc cổ để theo dõi chuyển động của gia súc trên đồng ruộng. Các đối thủ khác của những công ty này lại tập trung phát triển giải pháp chuồng trại như camera Cainthus quan sát máy móc cố định hoặc cảm biến SomaDetect lắp đặt trong dây chuyền vắt sữa. Mỗi công ty bán phần cứng, sau đó cung cấp dịch vụ phân tích dữ liệu.
Cung cấp quyền truy cập và dữ liệu thời gian thực và chất lượng cao giúp khách hàng là người nông dân có thể nhanh chóng đưa ra quyết định thông minh. Ngoài ra, chất lượng và mức độ chi tiết của dữ liệu có giá trị đối với khách hàng không phải nông dân như hãng kinh doanh thức ăn chăn nuôi và nhà cung cấp dịch vụ trang trại. Quyền truy cập vào dữ liệu trang trại có giá trị to lớn đối với những khách hàng này. Đây là lý do các nhà đầu tư như Wilbur Ellis’ Cavallo Ventures đã rót vốn vào các công ty công nghệ chăn nuôi như Performance Livestock Analytics hay Cargill đầu tư vào Cainthus, hệ thống thị giác máy tính trong chuồng nuôi gia súc vào năm 2018.
Trang trại chăn nuôi thông minh với công nghệ điều khiển không dây. Ảnh: Shutterstock
Xanh
Giải pháp duy nhất hiện nay để giảm tác động lên môi trường của ngành chăn nuôi là cắt giảm phát thải khí nhà kính. Hướng đi này ngày càng khả thi nhờ các chất phụ gia thức ăn có khả năng giảm quá trình lên men trong ruột (bò ợ hơi). Theo Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), quá trình lên men trong ruột là thủ phạm gây ra 27% khí thải methane và riêng khí thải methane chiếm 32 - 40% lượng khí thải nhà kính của ngành nông nghiệp.
DSM, hãng dinh dưỡng và thú y chăn nuôi có trụ sở tại Hà Lan tuyên bố đã tìm ra câu trả lời bằng một loại phụ gia thức ăn chăn 3NOP (nhãn hiệu Bovaer) và dự kiến tung ra thị trường châu Âu cuối năm 2022. Sản phẩm này đã có mặt ở một số thị trường vào năm 2021. Phụ gia này có tác dụng rất nhanh với liều lượng sử dụng chỉ bằng ¼ thìa cà phê vào thức ăn là có thể giảm 30% khí thải trong chăn nuôi. Hợp chất này được phát hiện năm 2013 và đã trải qua quá trình thử nghiệm thực địa nghiêm ngặt suốt 7 năm qua.
Công ty Mootral phát triển sản phẩm giúp giảm khí thải methane bằng cam quýt và tỏi. Mô hình kinh doanh của Mootral đã được cơ quan tính dụng carbon Verra cấp chứng nhận. Nhờ đó, sản phẩm của Mootral có thể mang lại cho người nông dân nguồn doanh thu thứ 2 từ việc bán tín dụng carbon bù đắp khí thải methane.
Sạch
Chất thải chăn nuôi là một phần quan trọng của hệ thống nông nghiệp, được sử dụng làm phân bón cây trồng hoặc nhiên liệu sinh học. Nhưng phần lớn trang trại chăn nuôi vẫn đang tiêu tốn không ít chi phí loại bỏ phân thải, thay vì tận dụng. Hơn 3,9 triệu trang trại chăn nuôi trên thế giới đang thải ra 10 tấn phân mỗi ngày. Do đó, tác động tiêu cực đến thị trường đang gia tăng, cùng với tình trạng đất đai khô cằn và lượng kim loại nặng tích tụ trong đất ngày càng nhiều đã gây ô nhiễm nguồn nước ngầm.
Tại châu Âu và Bắc Mỹ, các trại chăn nuôi bắt đầu chú trọng xử lý phân tại cơ sở sản xuất, vừa tiết kiệm chi phí, mặt khác đáp ứng quy định môi trường ngày càng khắt khe do chính phủ đặt ra. Hãng Bluetector, Đức đã tìm ra công nghệ xử lý nước thải đô thị để xử lý được nồng độ nitrat cao trong phân. Hệ thống không sử dụng chất phụ gia hóa học, nhỏ gọn trong một thùng chứa và giá khoảng 500.000 USD và chi phí vận hành và bảo trì khoảng 2 USD/tấn. Với công nghệ này, người chăn nuôi có thể hoàn vốn sau 1 - 2 năm nên có ý nghĩa to lớn bởi châu Âu đang siết chặt quy định về xử lý phân thải chăn nuôi. Một giải pháp khác từ Công ty Livestock Water Recycling, Canada sử dụng quy trình lọc để tách chiết kali và amonia lỏng, chất rắn giàu phốt pho, nitơ và nước.
Nguồn: Tạp chí gia cầm

SẴN SÀNG TÂM THẾ CHO 2023
Thế Giới Gia Cầm) - Sáng 13/1/2023 tại Hà Nội, Hiệp hội Chăn nuôi Gia cầm Việt Nam (VIPA) đã tổ chức Hội nghị Ban thường vụ tổng kết công tác năm 2022 và kế hoạch hoạt động năm 2023. Tham dự có các ủy viên Ban Thường vụ, các đơn vị và một số doanh nghiệp trực thuộc VIPA.
Nguyễn Thanh Sơn, Chủ tịch VIPA trình bày tóm tắt công tác năm 2022 và phương hướng hoạt động năm 2023.
Chủ tịch VIPA Nguyễn Thanh Sơn cho biết, trong năm 2022, dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn nhưng về cơ bản VIPA đã làm tốt vai trò của mình, đã và đang đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngành gia cầm nước ta. Đồng thời với việc thực hiện tốt vai trò tư vấn, giám sát, phản biện đối với các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, một trong những nét đặc sắc trong hoạt động của VIPA là “đẩy mạnh giao thương nội khối”. Thời gian qua, Hiệp hội đã và đang tạo môi trường hợp tác, thực hiện chuỗi liên kết giữa các hội viên trong sản xuất, kinh doanh; Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, dịch vụ, đầu tư, nghiên cứu khoa học, tìm hiểu khảo sát thị trường trong và ngoài nước. VIPA đã chủ trì và phối hợp tổ chức thành công nhiều hội thảo, tập huấn, tọa đàm; Tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, kiến thức về kỹ thuật, quản trị doanh nghiệp và hội nhập kinh tế thế giới. Đặc biệt, trong năm 2022, VIPA đã coi trọng mở rộng quan hệ thương mại quốc tế, tham gia các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác, mở rộng thị trường. Bên cạnh đó, Hiệp hội cũng coi trọng công tác thông tin, truyền thông. Thông qua các ấn phẩm “Thế giới Gia cầm”, “Người Chăn nuôi”, cùng các trang thông tin điện tử, VIPA đã kịp thời chia sẻ những thông tin về chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Các tiến bộ khoa học công nghệ; Cập nhật tình hình ngành chăn nuôi trong nước, quốc tế; Đồng hành cùng doanh nghiệp, hội viên trong các hoạt động, sự kiện… “Muôn nẻo” tin tức đó đã được bạn đọc tích cực đón nhận.
“Có thể nói, thời gian qua, VIPA đã từng bước mang lại 4 giá trị cốt lõi cho các hội viên, đó là giá trị kết nối, giá trị thông tin, giá trị tinh thần và giá trị kinh tế”, TS. Nguyễn Thanh Sơn chia sẻ thêm.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã cùng nhau bàn nhiệm vụ trọng tâm cho Hiệp hội trong năm 2023. Theo đó đã thống nhất một số hoạt động nổi bật như: Tổ chức Hội nghị tổng kết năm 2022 và triển khai kế hoạch năm 2023 dự kiến trong tháng 3/2023 tại Bình Định; Chuẩn bị tích cực cho Lễ kỷ niệm 20 thành lập VIPA và tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2024 - 2029; Tổ chức cho các doanh nghiệp tham gia Triển lãm Quốc tế lớn nhất châu Á về chăn nuôi, thủy hải sản, chế biến thịt, trứng và các sản phẩm từ sữa tại Thái Lan vào tháng 3/2023; Tổ chức Chương trình bình chọn và trao tặng “Danh hiệu Sản phẩm Vàng chăn nuôi Việt Nam lần thứ 3”; Gia nhập Hiệp hội Gia cầm Quốc tế (IPC); Phấn đấu được xét tặng Huân chương Lao động Hạng II trong năm 2023; Tiếp tục xem xét kết nạp một số hội viên mới, trong đó ưu tiên các trang trại chăn nuôi lớn, các doanh nghiệp, hợp tác xã tiêu thụ sản phẩm gia cầm; Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động giao thương nội khối; Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế và đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông…
Nguồn: Tạp chí gia cầm

Giá heo hơi trong nước hôm nay 7/2/2023
Theo khảo sát, thị trường heo hơi tại miền Bắc lặng sóng, ổn định giá trong khoảng 51.000-53.000 đồng/kg
Mặc dù lượng heo bán chạy từ trước Tết và dự kiến khoảng 10-12 ngày nữa nguồn cung mới có lại nhiều hơn nhưng thị trường tiêu thụ chậm nên thương lái thường chủ yếu bắt heo 2 máu với giá 47-49.000 đồng/kg
Do thời tiết vẫn đang trong đợt mưa phùn nên khu vực nuôi gột gần như hoãn nhập do sợ bùng dịch. Trong khi nhu cầu thị trường tiêu thụ chậm, heo biểu to hơn nên sẽ dễ tiếp tục bị ép giá.
Cụ thể, ba tỉnh Yên Bái và Lào Cai, Bắc Giang tiếp tục thu mua heo hơi với giá 51.000 đồng/kg.
Còn ở các đại phương khác, giá heo giao động trong khoảng 52.000-53.000 đồng/kg.
Tại thời điểm này tại miền Trung, giá heo hơi ở các địa phương bao gồm Nghệ An, Quảng Nam, Lâm Đồng và Bình Thuận đang được giao dịch ở mức 53.000 đồng/kg.
Giá thu mua tại các tỉnh còn lại ở miền Trung được duy trì ở mức 52.000 đồng/kg.
Hiện tại, giá thu mua heo hơi ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên trong khoảng 52.000 - 53.000 đồng/kg.
Tại miền Nam, giá heo hơi duy trì ổn định trên diện rộng so với hôm qua.
Do heo trên 120kg/con tại khu vực miền Nam, miền Trung tiêu thụ khá chậm sau Tết, cùng với đó là nổ dịch rải rác tại 1 số tỉnh khiến lượng heo bán chạy ra thị trường nhiều nên thương lái chuyển sang mua ở trong tỉnh với mức giá 52.000 - 54.000 đồng/kg.
Theo đó, heo hơi tại các địa phương bao gồm Long An, Đồng Tháp và Bến Tre tiếp tục được thu mua với giá cao nhất khu vực là 54.000 đồng/kg.
52.000 - 53.000 đồng/kg là khoảng giá được chứng kiến tại các tỉnh, thành còn lại.
Nhìn chung, giá heo hơi ổn định trên cả nước. Hiện tại, giá khảo sát ở các tỉnh thành dao động trong khoảng 51.000 - 54.000 đồng/kg.
TRIỂN LÃM CHUYÊN NGÀNH
