Bệnh gà
Gà mổ cắn nhau ở khắp nơi trên cơ thể như đầu, cánh, đuôi, hậu môn… gây chảy máu. Khi máu chảy tiếp tục là nhân tố kích thích càng mổ cắn nhau mạnh. Khởi đầu chỉ một vài con trong đàn mổ cắn, nhưng nếu không can thiệp sớm có thể bùng phát trong toàn đàn, gây thiệt hại rất nhiều về kinh tế.
CẮT MỎ VÀ LÀ MỎ GÀ
Con vật sốt cao 43 – 45oC, thở khó, uống nhiều nước, mệt mỏi, ủ rũ, lông xù, mất tính thèm ăn. Ho, hắt hơi, khò khè, chảy nước mắt, nước mũi. Đi loạng choạng, run rẩy, đầu lắc lư, quay cuồng khi bị xua đổi, mệt mỏi nằm lì, tụm đống lên nhau. Tiêu chảy, phân loãng trắng, xanh. Xuất huyết: ở mào, yếm (gà dưới 2 tháng tuổi mào, yếm, thâm tím lại; gà trên 2 tháng tuổi mào, yếm thâm tím và có xuất huyết hoại tử ở rìa mào, ở dưới da, da chân, kẽ ngon chân). Tỷ lệ bệnh và chết rất cao. Giảm sản lượng và chất lượng trứng đột ngột
BỆNH CÚM GIA CẦM – AVIAN INFLUENZA (AI)
Gà sốt cao, thở khó, uống nhiều nước, mệt mỏi, ủ rũ, lông xù, mất tính thèm ăn. Đầu, mào, tích, chân tím bầm, phù và sưng. Tiêu chảy phân xanh, vàng, lẫn máu. Con vật vẹo cổ, mất thăng bằng, đi lại xiêu vẹo, bại liệt, không đứng hay đi được. Xuất huyết dưới da bàn chân và cẳng chân. Trứng giảm đột ngột.
HỘI CHỨNG CÒI CỌC DO REOVIRUS – REO
Nhìn chung cả đàn gà vẫn ăn uống khỏe mạnh bình thường, nhưng gà ỉa chảy liên tục, phân sống có bọt khí, khi dùng các loại thuốc kháng sinh điều trị bệnh sẽ thuyên giảm trong 2-3 ngày, song ngay sau đó tiêu chảy lại tiếp diễn (kháng sinh không có tác dụng).
Hình thể gà xấu xí, chân lùn, đi không vững, lông kém mượt lại bẩn do phân bám dính, có lẽ từ các bệnh chứng này nên người ta đặc tên cho bệnh là bệnh “gà lùn”.
Gà bệnh chậm lớn hẳn so với những con khác cùng lứa tuổi, gây cảm giác như trong đàn gà gồm nhiều lứa tuổi khác nhau và cách nhau 2-3 tuần tuổi - Đến khi gà được 5-6 tuần tuổi thì những gà bệnh có biểu hiện thần kinh rất rõ: đi không vững, run rẩy và hay ngã khi xua đuổi.
Tuy nhiên tỉ lệ chết không cao.
BỆNH SƯNG PHÙ ĐẦU TRÊN GÀ – AVIAN PNEUMOVIRUS (APV)
Thời gian ủ bệnh sưng phù đầu trên APV khoảng 3 ngày, khi mới nhiễm bệnh gà gần như không có biểu hiện nào rõ rệt, tỷ lệ chết thấp. Gà biểu hiện run đầu, phù vùng da đầu, mặt, mắt, thở nhanh, khó thở, ho, âm rale, chảy nước mắt, mũi, mắt híp, gầy yếu, đầu lắc, vẹo cổ, đi lại khó khăn. Giảm tỷ lệ đẻ 5-30%, giảm tỷ lệ ấp nở 5-10%, buồng trứng vỡ, teo, biến dạng, chất lượng vỏ trứng giảm: nhạt màu hơn, vỏ mỏng, dễ vỡ, dị dạng…
NUÔI DƯỠNG GÀ VÀO MÙA NÓNG
Thông qua việc tạo và giải phóng thân nhiệt sẽ giúp gà duy trì thân nhiệt nằm ở mức 40,1 – 41,7OC. Nếu nhiệt lượng sản xuất ra nhiều hơn lượng nhiệt lượng giải phóng gà sẽ bị stress nhiệt. Lúc này gà sẽ tăng cường hô hấp, tăng lượng nước uống vào và giảm lượng cám ăn. Khi nhịp hô hấp tăng nhanh thì carbon dioxide từ máu sẽ được thải ra nhiều à độ pH trong máu tăng (tăng độ kiềm), phá vỡ sự cân bằng chất dinh dưỡng vô cơ và chất điện giải trong cơ thể. Gà có thể giảm tỷ lệ đẻ, chất lượng vỏ trứng bị ảnh hưởng. Gà thịt có thể chậm lớn, ảnh hưởng tới FCR, tăng tỷ lệ chết. Đặc biệt, là những trại nuôi với mật độ cao nếu không chú ý để nhiệt độ chuồng trại tăng thì đàn gà sẽ bị thiệt hại rất lớn.
Quản lý thức ăn: Vào mùa nóng gà sẽ giảm lượng cám ăn vào nên cần cung cấp cám có hàm lượng đạm cao. Tuy nhiên, những loại cám này thì thường giá cao. Hơn nữa, thức ăn có hàm lượng chất béo cao sẽ dễ hư. Có thể chuyển sang cho ăn vào lúc thời tiết mát (lúc sáng sớm hoặc chiều tối). Không nên cho gà ăn khi thời tiết nóng. Bổ sung thêm chất điện giải và vitamin vào trong cám. Về mặt sinh lý khi hô hấp tăng, lượng cám ăn vào giảm thì mức độ cân bằng của chất điện giải bị phá hủy à ảnh hưởng tới quá trình hình thành vỏ trứng, tỷ lệ vỏ trứng bị bể cao. Bổ sung Na4Cl và NaHCO3 sẽ giúp cải thiện độ pH. Vitamin A, C, E sẽ giúp nâng cao sức miễn dịch của các tế bào trong cơ thể. Vitamin D3 giúp tăng hiệu quả hấp thu canxi à giúp cải thiện chất lượng trứng.
Bổ sung đầy đủ nước uống, vệ sinh silô cám để chống nấm mốc. Ban ngày có thể mở nắp silô để thoát nhiệt ra bên ngoài và ban đêm có thể đóng lại. Bên ngoài silô có thể bọc cách nhiệt để tránh nhiệt độ lên quá cao.
Quản lý cấp nước: thông thường gà sẽ uống gấp đôi lượng cám ăn vào. Thời tiết nóng thì lượng nước gà uống sẽ gấp từ 4 – 8 lần lượng cám ăn vào. Nhiệt độ nước uống không được vượt quá 250C.
Có thể bỏ đá vào bồn chứa nước để hạ nhiệt độ nước uống. Nước sẽ giúp gà ức chế sự phát triển của vi khuẩn và nấm mốc gây hại à hạn chế dịch bệnh. Định kỳ cần kiểm tra chất lượng nước.
Quản lý đèn: Việc sử dụng đèn tròn sợi đốt có thể khiến nhiệt độ trong trại tăng cao. Nên sử dụng đèn có ánh sáng trắng không tỏa nhiệt.
Quản lý chuồng trại: để giảm nhiệt độ cảm nhận thì trong trại cần điều chỉnh thông thoáng khí thích hợp. Nếu tốc độ gió 0,25 m/s có thể giảm nhiệt độ cảm nhận khoảng 0,560C. Tốc độ gió 2,54 m/s có thể giảm nhiệt độ cảm nhận lên tới 5,560C.
Nếu lắp đặt hệ thống làm lạnh cooling pad có thể giúp giảm nhiệt độ chuồng xuống từ 3 – 5 0C và tăng độ ẩm lên từ 10 – 20%. Ẩm độ cũng sẽ ảnh hưởng tới stress nhiệt của gà. Nếu nhiệt độ là 200C nhưng độ ẩm lên tới 90% thì gà vẫn bị stress nhiệt. Mái chuồng trại nên lắp các vật liệu cách nhiệt hoặc hệ thống phun nước trên mái.
Nguồn: channuoigiacam.com
BỔ SUNG CHẤT ĐIỆN GIẢI CHO GÀ
Không khí nóng gây thiệt hại rất lớn đến ngành chăn nuôi gà. Gà có đặc điểm là thân nhiệt ở mức cao trên 410C, bao quanh thân là lớp lông dày, không có tuyến mồ hôi. Gà chỉ có thể điều chỉnh thân nhiệt qua hô hấp và bài tiết. Nhưng may mắn là mạch máu ở mào và vùng cổ có thể giúp gà điều chỉnh được thân nhiệt.
Để duy trì được sự sống, sản xuất thịt và trứng gà phải sử dụng cám. Tuy nhiên, việc tiêu hóa thức ăn sẽ phát sinh rất nhiều nhiệt lượng. Gà phải hô hấp trong môi trường nóng ẩm sẽ rất dễ bị mệt, mất nước.
Nhiệt độ thích hợp nhất cho gà là từ 10-20OC. Khi nhiệt độ đạt trên 30 OC thì lượng nước sẽ uống vào tăng nhưng lượng cám ăn vào sẽ giảm. Độ ẩm không khí trên 60% thì gà bắt đầu khó thở, miệng há rộng, chân và cánh dang ra. Trường hợp gà đẻ, trọng lượng và chất lượng trứng sẽ giảm. Một số trường hợp gà sẽ ngừng đẻ khiến tỷ lệ đẻ bị ảnh hưởng. Khi gà mệt mỏi kéo dài, nhiệt lượng tích tụ trong máu, khiến máu lưu thông không bình thường à máu bị axit hóa. Thông thường máu có tính kiềm nhẹ giúp hỗ trợ dinh dưỡng cho tế bào, hỗ trợ tiêu hóa, bài tiết carbon dioxide còn dư ra bên ngoài.Nếu môi trường xung quanh nóng ẩm, máu không thể thải carbon dioxide ra bên ngoài khiến máu có tính axit nhẹ.
Lượng axit lactic tích lũy trong cơ thể khiến cho gà dù chạm nhẹ cũng bị đau, phát ra tiếng kêu, gà không ngồi được. Lúc này não sẽ phát ra tín hiệu cho gà uống nước để duy trì tính kiềm trong máu. 70% trọng lượng cơ thể gà là nước. Ở gà con tỷ lệ này còn cao hơn. 75% trọng lượng trứng gà cũng là nước. Vì vậy để sản xuất trứng thì gà cần rất nhiều nước.
Khi thời tiết nóng gà sẽ uống một lượng nước gấp 3 lần lượng cám ăn vào (trên 500 ml). Nhiệm vụ của trại là phải cung cấp đầy đủ nước sạch và mát cho gà.
Hiện nay các trại mới xây có hệ thống đo lượng nước và pha thuốc hiện đại. Nhưng vẫn còn trại, cung cấp nước theo kiểu cũ là dùng ống nước dẫn tới từng chuồng. Khi sử dụng lâu ngày sẽ phát sinh các vấn đề nghẹt ống, thiếu nước. Ngoài ra, nước có thể nhiễm bẩn ngay từ trong bể nước. 90% máu chính là nước, nên nước là yếu tố dinh dưỡng cần thiết đối với sức khỏe của gà. Nước giúp vận chuyển các chất dinh dưỡng và tế bào miễn dịch đến các cơ quan. Nước còn giúp tiêu hóa và bài tiết các chất thải ra bên ngoài. Thời tiết nóng sẽ khiến vi sinh vật trong đường ruột tăng, tiết ra các độc tố gà bị tiêu chảy.
Chất điện giải chính là nước được pha với muối. Muối ở đây có thể là natri,kali, canxi và magiê. Những chất này sẽ hỗ trợ trao đổi chất, tăng cường sự thẩm thấu của các ion âm và dương bên trong và ngoài thành tế bào tăng cường sức đề kháng của tế bào.
Ở con người khi khô cổ, khát nước thì đó là tín hiệu của sự cân bằng chất điện giải bị phá vỡ. Còn gà khi liên tục bu quanh núm uống thì đó là dấu hiệu cần cung cấp bổ sung thêm chất điện giải. Gà khi bị stress do nhiệt độ cao, chúng sẽ tiết ra adrenaline khiến tốc độ tuần hoàn máu tăng nhanh. Cộng với việc tăng nhịp thở để nhận nhiều oxy khiến chất điện giải trong cơ thể gà bị sụt giảm. Trên thị trường hiện nay có bán nhiều chế phẩm chứa chất điện giải và có bổ sung thêm vitamin. Lưu ý nên lựa chọn các chế phẩm có chất lượng tốt, không đóng cặn gây nghẹt đường ống.
Nguồn: channuoigiacam.com
LỰA CHỌN HỆ THỐNG CẤP NƯỚC CHO ĐÀN GÀ
Ai cũng biết nước là nguồn dinh dưỡng thiết yếu cho gà nhưng đa số không biết lượng nước cần thiết cho gà là bao nhiêu. Việc lựa chọn hệ thống cấp nước cũng rất quan trọng, nếu không quản lý tốt thì nước có thể là nguyên nhân gây lây lan dịch bệnh.
Có hai loại hệ thống cấp nước. Loại đầu tiên là loại dạng kín đến khi gà uống thì nước mới tiếp xúc với không khí (hệ thống núm uống). Loại hai là loại hở nước đựng trong máng, luôn tiếp xúc với không khí. Dạng hở dễ lẫn cám và phân gà à nước dễ bị nhiễm khuẩn. Hệ thống cấp nước dạng kín (núm uống) có ưu điểm là đảm bảo vệ sinh hơn, có khả năng hạn chế dịch bệnh tốt hơn. Người quản lý cần phải chú ý xem hệ thông cấp nước có bị hư hỏng hay rỉ nước khiến nền chuồng bị ướt hay không?
Quản lý không để chất độn chuồng bị ướt:
Độ ẩm chất độn chuồng ở khoảng từ 20-25% là phù hợp. Nếu độ ẩm cao hơn mức này thì các loại khuẩn như E.coli, cầu trùng, Salmonella dễ gia tăng. Ngoài ra hơi nước bốc hơi cũng sẽ khiến chuồng trại lạnh hơn. Bề mặt chất độn chuồng bị ướt sẽ vón cục, cứng không phù hợp với sự sinh hoạt và ảnh hưởng tới sức khỏe gà. Chất độn chuồng bị ẩm sẽ khiến phân dễ phân hủy, phát sinh khí amoniac à ảnh hưởng tế bào biểu mô hô hấp. Nếu nồng độ ammoniac ở mức 5ppm thì gà đã dễ mắc các bệnh hô hấp. Ngược lại ờ nồng độ 5ppm thi mũi người không nhận biết được mùi. Con người chỉ nhận biết được khi khí ammoniac ở mức 25ppm. Nếu khí ammoniac ở mức 50-100ppm thì có thể gây mù mắt gà. Người quản lý nên thường xuyên kiểm tra độ ẩm của chất độn chuồng nhằm điều chỉnh độ cao và áp lực của núm uống. Nếu áp lực nước quá cao thì chất độn chuồng dễ bị ẩm. Áp lực nước thấp thì gà bị thiếu nước, giảm tăng trọng.
Quản lý hệ thống cấp nước: Khi chất độn chuồng ẩm thì sẽ xuất hiện các triệu chứng viêm nhiễm lòng bàn chân, sưng phù ngực, viêm da. Khi gà mắc bệnh thì sẽ ảnh hưởng tới FCR cám, chậm lớn và tăng chi phí thuốc (phải sử dụng kháng sinh).
Kiểm tra áp lực nước và núm uống có bị rỉ nước hay không. Nếu nắm rõ được độ ẩm của chất độn chuồng thì ta có thể dễ điều chỉnh lượng nước cung cấp.
Phòng chống cặn bám trong ống nước: Phía trong đường ống nước thường bám một lớp màng sinh học (biofilm). Đặc biệt khi trong nước có vitamin, thuốc, đường thì đây là môi trường lý tưởng cho vi khuẩn phát triển. Trường hợp nếu áp lực nước khi xịt rửa qua yếu sẽ không làm bong tróc được lớp màng này.
Lớp màng sinh học đóng trong ống nước sẽ là nơi tích tụ vi khuẩn và khiến vi khuẩn trong nước uống gia tăng. Khi gà uống nước bị nhiễm bẩn, với thân nhiệt của gà là 41,10C sẽ khiến vi khuẩn tăng nhanh à gà dễ mắc bệnh.
Nước đã được sát trùng cũng có thể bị tái nhiễm bẩn. Một vi khuẩn E.coli ở nhiệt độ 320C trong vòng 24 tiếng có thể tăng tới 1000 tỷ vi khuẩn. Ta có thể sử dụng máy xịt cao áp phun xịt bên trong đường ống 1.5~3.0 bar (20~40 psi, kg/cm2 ). Ngoài ra nếu sử dụng chế phẩm H2O2 cũng giúp phân giải các dị vật và màng vi khuẩn trong ống. Tuy nhiên việc sử dụng chế phẩm H2O2 sẽ khiến nước có vị khác biệt à giảm lượng nước uống và cám ăn vào. Nếu quản lý nước uống cho gà tốt thì sẽ giúp gà khỏe mạnh, duy trì năng suất cao.
Nguồn: channuoigiacam.com (Theo thepoultrysite)
BỆNH GOUT
Bệnh gout trên gà chia làm hai loại: Gout nội tạng và bệnh gout khớp.
Bệnh gút nội tạng được biểu hiện bằng sự lắng đọng urat trong ống thận và các lớp thanh mạc của tim, gan, mạc treo, túi khí hoặc phúc mạc. Các chất lắng đọng urat trông giống như một lớp bụi phấn trắng. Urat lắng đọng nội tạng nói chung là do suy thận. Các nguyên nhân có thể gây ra tình trạng này có thể là tắc nghẽn niệu quản, tổn thương thận hoặc mất nước.
Bệnh gout khớp được đặc trưng bởi sự lắng đọng urat quanh khớp (tophi), đặc biệt là xung quanh các khớp ngón chân và bàn chân. Các khớp được mở rộng và ngón chân - dị dạng.
1. NGUYÊN NHÂN
Chế độ ăn thừa đạm đặc biệt là đạm động vật như bột thịt.
Thiếu vitamin A.
Bệnh thận và độc tố của nấm.
Dư thừa canxi >3% , dư thừa vitamin D3
Độc tính Natri Bicacbonat
2. TRIỆU CHỨNG
Các khớp được mở rộng và ngón chân - dị dạng. chân sưng.
Ngoài ra không có dấu hiệu lâm sàng nào.
Tỷ lệ tử vong có thể tăng và tồn tại khoảng 2-4% hàng tháng trong thời kỳ sản xuất.
Tỷ lệ chết toàn đàn bị ảnh hưởng nặng nề có thể lên tới 50%.
3. BỆNH TÍCH
Thận sưng to, có đốm hoặc màu nâu, niệu quản căng do tích tụ chất màu trắng dính. Sự lắng đọng chất trắng như phấn trên màng tế bào và các cơ quan khác nhau của cơ thể.
Sau khi mở các khớp bị ảnh hưởng, mô quanh khớp có màu trắng. Cũng có thể nhìn thấy một chất bán lỏng màu trắng, do cặn urat.
Trường hợp mãn tính, có thể quan sát thấy kết tủa urat ở khí quản, mào, tích, vv
4. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
Phòng bệnh
Hạn chế các nguyên nhân gây bệnh gout trên gia cầm
Tăng lượng nước cho gà uống và bổ sung thêm vitamin A. 4% rỉ đường và thuốc lợi tiểu trong nước uống
Sử dụng các loại acid hữu cơ như: PRODUCTIVE ACID SE pha 1-2ml/ 1 lit nước uống giúp acid hóa nước tiểu ngăn chặn không cho tích tụ urat trong thận thêm, ngoài ra còn giúp kích thích gà uống nhiều nước hơn
Cung cấp thức ăn cân bằng cho gia cầm
Bổ sung các loại vitamin cho gà:
PRODUCTIVE AD3E thành phần gồm vitamin A, D3, E liều với liều 1ml/2-10l nước uống, mỗi liệu trình 5-7 ngày
AMILYTE thành phần gồm: vitamin A, D3, K3, E, B2, B12,B3, B5, … Liều dùng pha 2g/lít nước uống.
PRODUCTIVE FORTE thành phần gồm: vitamin A, D3, E, PP, B1, B6. Liều dùng tiêm bắp cho gà, vịt đẻ liều 0,5cc/con/tháng. Hoặc pha nước uống cho gà con và gà giò 1cc/lít nước.
VITROLYTE thành phần gồm: vitamin A, D3, E, K3, B12, Biotin, B3, B2, B5, B6, B1, .....Liều dùng pha nước uống 2-3G/Lit nước
Thường xuyên sử dụng bổ gan thận: SORAMIN; hoặc LIVERCIN ; hoặc UMBROLIVER với liều 1ml/1-2 lít nước
Trị bệnh
Tìm nguyên nhân và điều trị dựa vào nguyên nhân đó. Tập chung vào các nguyên nhân hay gây ra gout như thiếu nước hoặc thiếu núm uống, tỉ lệ canxi bổ sung, độc tốc nấm mốc, lượng muối NaCl, thiếu vitamin A,…
BỆNH SỤN HOÁ XƯƠNG BÀN CHÂN
Bệnh sụn hoá xương chày, xương bàn chân ở gà công nghiệp chủ yếu thấy xuất hiện ở gà nuôi thịt. Tỷ lệ bệnh 2-5% ít thấy chết.
1. NGUYÊN NHÂN
Do di truyền, đặc biệt ở một số dòng gà nuôi thịt.
Do thức ăn thiếu Ca làm cho xương mềm và sụn hoá.
2. TRIỆU CHỨNG
Thường biểu hiện ở gà thịt 3-6 tuần tuổi. Ở xương bàn chân và đầu xương chày thấy sưng to, gà đi lại khó khăn, chủ yếu nằm bẹp một chỗ.
3. BỆNH TÍCH
Xương mềm, đầu xương ống chân và bàn chân sưng, chủ yếu là sụn mềm.
4. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
Cần xem xét những dòng gà có di truyền về bệnh trên để loại trừ.
Bổ sung vào thức ăn đủ lượng khoáng Ca, P, MN, Zn và vitamin D để phát triển bộ xương bình thường theo trọng lượng của cơ thể:
CALPHO hoặc CANXIPRO với liều 1ml/1-2lit nước uống, cho uống 5-7 ngày/ đợt kết hợp PRODUCTIVE AD3E với liều 1ml/2-10l nước uống, mỗi liệu trình 5-7 ngày
Chuồng trại thiết kế phải có ánh sáng buổi sáng chiếu lọt vào chuồng, để gà tiấp nhận được tia tử ngoại từ ánh sáng mặt trời, giúp cho sự chuyển hoá tiền vitamin D3 thành vitamin D3.
Không nên trị bệnh khi bệnh đã bại liệt và xương đã bị sụn hoá.
BỆNH MỀM ĐỐT SỐNG
Bệnh thường thấy ở gà thịt giai đoạn 3-6 tuần tuổi với biểu hiện bại liệt do bị trật đốt sống ngực cuối. Tỷ lệ bệnh từ 1-2%, ít khi chết.
1. NGUYÊN NHÂN
Do bẩm sinh ở một số giống gà nuôi thịt.
2. TRIỆU CHỨNG
Ở giai đoạn tuần tuổi thứ 3 trở đi thấy gà đi cúm rúm bằng ngón chân. Cho đến tuần thứ 6 gà đi rất khó khăn và không giữ thăng bằng cho cơ thể. Sau đó bại liệt hoàn toàn.
3. BỆNH TÍCH
Mổ khám ở tuần tuổi thứ 5,6,7 ở những gà có triệu chứng thấy đốt sống ngực bị trật một phần( nguyên nhân do áp lực trọng lượng cơ thể đè lên cột sống).
4. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
Chọn những giống gà không bị bệnh trên để nuôi giống.
Không điều trị được khi đã bại liệt.
BỆNH CÒI XƯƠNG
Đây là bệnh thường phổ biến ở gà giò, ít thấy ở gà con. Với đặc điểm tổn thương chủ yếu ở xương do hậu qủa thiếu chất Ca, P và vitamin D làm cho gà què quặt, xương biến dạng và phát triển kém.
1. NGUYÊN NHÂN
Do khẩu phần ăn thiếu Ca, P hoặc tỷ lệ Ca/P không cân bằng.
Do khẩu phần ăn thiếu vitamin D hoặc chuồng nuôi thiếu ánh sáng nên vitamin D ở da của gà không chuyển thành vitamin D để điều tiết sự hấp thu Ca, P cho cơ thể.
Do trộn thức ăn không đều các chất khoáng Ca, P. vitamin D trong thức ăn.
Do khẩu phần ăn chứa lượng chát béo quá cao làm giảm khả năng hấp thụ anxi, photpho
Do cơ thể gia cầm bị 1 số bệnh truyền nhiễm hay dinh dưỡng làm viêm đường tiêu hóa và teo tuyến tụy gây ảnh hưởng đến khả năng hấp thu canxi, photpho từ thức ăn vào cơ thể
2. TRIỆU CHỨNG
Gà bệnh biểu hiện triệu chứng rối loạn vận động, què quặt và tiến đén chỉ nằm một chỗ. Trường hợp nặng khi đuổi gà đi lại khó khăn và biểu hiện trạng thái đau.
Gà còi, lông mọc chậm, xù lông, sã cánh
Bệnh kéo dài thấy lông rối, khô, cơ thể mất nước, gà mổ lông lẫn nhau hoặc ăn những vật thể lạ.
Ở gà đẻ đôi khi cũng bị nhưng biểu hiện ban đầu là đẻ non, đẻ giảm sau đó ngừng đẻ, bại liệt và dễ gãy chân.
Trứng đẻ ra vỏ mềm, mỏng hoặc không có vỏ gà đẻ khi thiếu Ca thường đẻ non và mổ trứng ăn)
Tỷ lệ trứng ấp nở thành công thấp
3. BỆNH TÍCH
Phần xương ống bị rỗ, bị cong và đầu xương bị sưng.
Xương mềm dễ cắt bằng dao.
Xương lưỡi hái và xương sườn cong, có những khối u ở phần giáp ranh giữa phân xương và sụn.
4. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
Phòng bệnh
Đưa vitamin D vào khẩu phần ăn định kỳ cho gà theo nhu cầu của từng lứa tuổi( xem trong bệnh thiếu vitamin D).
Đưa phần khoáng vi lượng Ca, P vào thức ăn theo nhu cầu từng lứa tuổi. có thể bổ sung bằng CALPHO hoặc CANXIPRO với liều 1ml/1-2lit nước uống, cho uống 5-7 ngày/ đợt
Chuồng nuôi phải có ánh sáng buổi sáng chiếu vào cho gà để tiếp nhận tia tử ngoại, nhằm chuyển tiền vitamin D thành vitamin D thành vitamin D cho gà. Hoặc Bổ sung vitamin cho con vật: PRODUCTIVE AD3E với liều 1ml/2-10l nước uống, mỗi liệu trình 5-7 ngày
Có thể cho gà vận động nhiều vào hơn để gà phát triển toàn diện bộ khung xương hơn.
Đối với gà đẻ cần sử dụng lượng Canxi và Photpho nhiều hơn, nên trong quá trình nuôi cần để ý và cung cấp canxi thường xuyên hơn
Cung cấp đầy đủ vitamin cho đàn gà có thể sử dụng PRODUCTIVE AD3E hoặc EGG FOR YOU cho đàn vật nuôi với liều pha nước uống: 1g/1-2lit nước
Trị bệnh
Dùng vitamin D3 gấp 2-3 lần liều quy định pha trong thức ăn hoặc nước uống.
Cũng có thể tiêm bắp ADE hoặc vitamin D3( như trong điều trị bệnh thiếu vitamin D và Ca). Đồng thời cho gà ăn tự do lượng Ca, P( Bột sò, bột xương), liên tục 5-7 ngày. Bổ sung bằng CALPHO với liều 1ml/1-2lit nước uống, cho uống 5-7 ngày/ đợt hoặc CANXIPRO với liều 1ml/ 1-2l nước cho uống 5-7 ngày điều trị
BỆNH MỆT MỎI CỦA GÀ ĐẺ CÔNG NGHIỆP
Bệnh CLF thường xảy ra ở gà đẻ công nghiệp được nuôi chủ yếu trên sàn hoặc trong lồng( không được tiếp xúc với đất).
1. TRIỆU CHỨNG
Gãy xương là do dòng canxi bị suy giảm liên quan đến sản lượng canxi cao trong vỏ trứng. Gà đẻ có khả năng sản xuất trứng sớm trên 95% trong ít nhất 6 tháng, điều này còn gây áp lực lớn đối với việc duy trì lượng canxi đầy đủ giữa chế độ ăn, khung xương và ống dẫn trứng.
Những con gà bị ảnh hưởng luôn được tìm thấy nằm nghiêng ở phía sau lồng. Vào thời điểm ban đầu bị tê liệt, gia cầm có vẻ khỏe mạnh và thường có một quả trứng có vỏ trong ống dẫn trứng và một buồng trứng đang hoạt động. Cái chết xảy ra do đói hoặc mất nước, bởi vì những con chim đơn giản là không thể tiếp cận thức ăn hoặc nước uống.
2. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
Phòng bệnh
Lập khẩu phần thức ăn có đủ luợng Ca, P và một số các nguyên tố vi luợng cùng vitamin các loại phù hợp theo tỷ lệ đẻ của từng giai đoạn.
Luợng Ca đưa vào khẩu phần ăn cần phải cân đối với P theo tỷ lệ 4:1. Có thể cho ăn tự do lượng bột sò và bột xương theo tỷ lệ trên.
Trong giai đoạn nhiệt độ môi trường cao, cho gà ăn ít thức ăn thì khẩu phần ăn cũng tăng tỷ lệ đạm cũng như lượng Ca, P.
Đưa phần khoáng vi lượng Ca, P vào thức ăn theo nhu cầu từng lứa tuổi. có thể bổ sung bằng CALPHO hoặc CANXIPRO với liều 1ml/1-2lit nước uống, cho uống 5-7 ngày/ đợt
Bổ sung vitamin cho con vật: PRODUCTIVE AD3E với liều 1ml/2-10l nước uống, mỗi liệu trình 5-7 ngày
Cung cấp đầy đủ vitamin cho đàn gà có thể sử dụng PRODUCTIVE AD3E hoặc EGG FOR YOU cho đàn vật nuôi với liều pha nước uống: 1g/1-2lit nước
Trị bệnh
Khi gà mái có triệu chứng trên ta phải bổ xung ngay vào thức ăn lượng Ca theo nhu cầu của gà đẻ cao sản. Nếu gà nuôi ít, ta có thể chuyển gà từ trên chuồng nuôi lồng xuống đất cho gà chạy tự do và cho khẩu phần ăn tăng luợng khoáng Ca và vitamin ADE trong giai đoạn 2-3 tuần gà sẽ hồi phục bình thuờng. (Lượng Ca, P và vitamin ADE xem trong bệnh thiếu Ca, P, vitamin ADE).
Thời cho gà ăn tự do lượng Ca, P( Bột sò, bột xương), liên tục 5-7 ngày. Bổ sung bằng CALPHO với liều 1ml/1-2lit nước uống, cho uống 5-7 ngày/ đợt hoặc CANXIPRO với liều 1ml/ 1-2l nước cho uống 5-7 ngày điều trị
Bổ sung vitamin cho con vật: PRODUCTIVE AD3E với liều 1ml/2-10l nước uống, mỗi liệu trình 5-7 ngày
BỆNH VIÊM THẬN SỚM Ở GÀ
Bệnh chỉ thấy xuất hiện ở gà con từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5. Gà bệnh nằm túm tụm một chỗ, lông xù, ăn kém và chết. Bệnh không lây lan trong đàn gà.
Bệnh tích mổ ra thấy thận nhợt nhạt, sưng ống dẫn niệu và bên trong ống dẫn niệu chứa đầy urat trắng. Trong trường hợp nặng có thể thấy urat trắng phủ lên màng tim, màng gan, màng ruột và cơ bắp.
Đây là một trong những bệnh mới, người ta chưa xác định rõ nguyên nhân gây bệnh. Vì vậy chưa có các biện pháp phòng và trị bệnh này.
BỆNH THIẾU KALI TRÊN GÀ
Kali trong cơ thể có tác dụng duy trì áp suất thẩm thấu trong tế bào. Kali còn kích thích men hoạt động như men: Fructokinaza, photphotransaxetilaza và đặc biệt là men adenozintriphophattaza. Men này có tác dụng tách photphat từ ATP rồi giải phóng năng lượng. Ngoài ra Kali còn phối hợp với Na trong sự dẫn truyền xung động thần kinh. Kali rất cần thiết cho hoạt động của tim và cho sự hình thành của xương. Khi thiếu K thì cơ thể sẽ bị bệnh.
1. NGUYÊN NHÂN
Do khẩu phần ăn không được cung cấp đủ hàm luợng Kali theo nhu cầu dinh dưỡng cơ thể.
Tham khảo một số nguyên liệu thức ăn có chứa hàm lượng Kali như sau: Ngô 3,6g/kg, bánh dầu đậu tương 22,1 g/kg, bột cá 9,5g/kg.
2. TRIỆU CHỨNG
Dấu hiệu thiếu K làm cho cơ thể có triệu chứng:
Các cơ tim, cơ hô hấp hoạt động yếu
Mất khả năng sử dụng chân và bài tiết 1 lượng lớn urat
Ăn kém do tính thèm ăn giảm, giảm trọng lượng cơ thể gà
Xác gầy đét do áp suất thẩm thấu giảm nên nước không được giữ lại trong tế bào.
3. BỆNH TÍCH
Xảy ra hiện tượng co giật, uốn ván
Thận và niệu quản bị phình to và thường tắc nghẽn do muối urat
Không thấy biểu hiện rõ nào khác
4. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
Nhu cầu K đối với gia cầm thay đổi từ 2,3-4,1g/kg TĂ. Lượng K đưa vào cơ thể còn phụ thuộc vào tốc độ sinh trưởng của gia cầm, hàm lượng Na và protein thô có trong khẩu phần thức ăn. Nếu khẩu phần thức ăn chứa 30% protein thô và 2,6g Na/kg TĂ thì K phải cần tới 2g/kg Tă. Khi tăng hàm lượng protit trong khẩu phần ăn của gia cầm thì cũng phải tăng cả lượng K. Nhu cầu này tăng giảm theo tuổi và giống. Ở gà tây cần 6g/kg TĂ, ở gà thường cần 2,3-4g/kg TĂ.
Có thể sử dụng các sản phẩm bổ sung chứ Kali cho con vật:
HYDROMAX: pha tỉ lệ 3% dung dịch nước uống, liệu trình từ 1-7 ngày ; phục hồi cân bằng nước và điện giải(Kali, Natri), tỉ lệ 1,5% dung dịch trong nước, cho uống hằng ngày
ORESOL liều 1ml/1lit nước
VITROLYTE: giải nhiệt, chóng mất nước, bù điện giải liều pha 2-3g/1 lít nước