

KỸ THUẬT CHĂN NUÔI


Nhận biết các bệnh qua phân của heo là một kỹ năng quan trọng trong chăn nuôi, giúp người nuôi phát hiện sớm và điều trị kịp thời các bệnh lý, từ đó giảm thiểu thiệt hại về kinh tế. Dưới đây là những thông tin chi tiết hơn về cách nhận biết các bệnh qua đặc điểm của phân heo:
1. Phân lỏng và có màu bất thường
Phân màu xám nhạt hoặc trắng nhầy:
Bệnh lý liên quan: Đây là dấu hiệu của tả heo cổ điển (Classical Swine Fever - CSF), một bệnh truyền nhiễm do virus gây ra, hoặc bệnh viêm ruột truyền nhiễm do virus (Transmissible Gastroenteritis - TGE).
Triệu chứng đi kèm: Heo có thể bị sốt cao, mất cảm giác ngon miệng, cơ thể suy yếu và xuất huyết dưới da.
Đề xuất: Khi phát hiện phân heo có màu xám nhạt hoặc trắng, cần cách ly ngay những con heo bị bệnh và báo cáo với bác sĩ thú y để thực hiện các biện pháp kiểm soát dịch bệnh.
Phân lỏng màu vàng hoặc vàng nâu:
Bệnh lý liên quan: Đây có thể là dấu hiệu của bệnh do vi khuẩn E. coli gây ra, thường gặp ở heo con sau cai sữa. Ngoài ra, bệnh này cũng có thể liên quan đến viêm dạ dày - ruột.
Triệu chứng đi kèm: Heo có thể bị tiêu chảy nặng, mất nước, sụt cân và yếu ớt.
Đề xuất: Cần cung cấp đủ nước và điện giải để tránh mất nước, đồng thời sử dụng kháng sinh theo chỉ dẫn của bác sĩ thú y. Sử dụng các sản phẩm bổ sung điện giải như: C.K.C, SUPER C 100, SUPER K 100…
Phân lỏng màu xanh lá cây:
Bệnh lý liên quan: Có thể liên quan đến bệnh liên cầu khuẩn (Streptococcus) hoặc viêm ruột hoại tử do vi khuẩn Clostridium gây ra.
Triệu chứng đi kèm: Heo có thể bị tiêu chảy, đau bụng, mất nước, và có thể chết nếu không được điều trị kịp thời.
Đề xuất: Cần điều trị bằng kháng sinh phù hợp và thực hiện các biện pháp vệ sinh chuồng trại để ngăn ngừa bệnh lây lan. Sử dụng các loại kháng sinh nhạy cảm như: Amoxyline, Ampiciline, Pennicilin. Tốt nhất nên sử dụng các loại kháng sinh có tác động kéo dài
Kháng sinh tiêm: NASHER AMX (Amoxycilin 15%) 1ml/10kgTT – nhắc lại sau 48h; NASHER QUIN (Cefquinome 2,5%) 1ml/12,5Kg TT/ngày; SH LINCOMYCIN liều 1ml/ 25-30kg. liệu trình 3-5ngày
Kháng sinh uống/ trộn:trộn cám/ cho uống SOLAMOX (Amoxyciline 70%) liều 1g/ 35-70kgTT ; MOXCOLIS ( Amoxycilin: 12%; colistin 10^6 IU) 1g/10kg TT; SULTEPRIM liều 1ml/ 1 lit nước, liên tục trong vòng 5 ngày.
Bước 5:Tăng sức đề kháng
ACTIVITON:Trợ sức trợ lực, liều tiêm bắp hoặc dưới da 1ml/10kgP
SORAMIN/LIVERCIN:Tăng cường chức năng gan-thận và giải độc liều 1ml/1-2 lít nước
ZYMEPRO:Kích thích tiêu hoá, giảm mùi hôi, giảm tiêu chảy và phân khô trộn 1g/1-2kg thức ăn.
PRODUCTIVE FORTE: Tăng sức đề kháng cho cơ thể và kháng dịch bệnh, liều 1ml/ 2-4lít nước.
2. Phân có máu
Phân có lẫn máu tươi:
Bệnh lý liên quan: Đây là dấu hiệu của viêm ruột xuất huyết, thường do vi khuẩn Salmonella hoặc Lawsonia intracellularis gây ra.
Triệu chứng đi kèm: Heo có thể bị tiêu chảy, sốt, đau bụng, và giảm cân nhanh chóng.
Đề xuất: Nên thực hiện kiểm tra và điều trị sớm với kháng sinh đặc hiệu, đồng thời điều chỉnh chế độ ăn uống của heo để giảm tải cho hệ tiêu hóa. Dùng kháng sinh
+ Kháng sinh tiêm: SILINGJEC liều 3-5mg/kg P; ENROFLON 10%;FULICONE 300 liều 1ml/20kg P; liệu trình 3-5 ngày
+ Kháng viêm, giảm đau và hạ sốt: Dùng NASHER TOL liều: 1ml/20kg TT/ngày. Tiêm liên tục 1-2 mũi. Hoặc sử dụng PARADISE liều 1g/1-2lit nước
+ Kháng sinh uống/ trộn: FLORICOL liều 1ml/ 20kg P; FULICONE liều 1ml/10-20kg P; YENLISTIN 40% liều 1g/ 80-200kg P; PULMOSOL liều 1,5g/10lit nước; MOXCOLIS 1g/10lg P; SOLADOXY 500 liều 1g/25kg P.
Phân đen như nhựa đường:
Bệnh lý liên quan: Phân đen thường là dấu hiệu của xuất huyết tiêu hóa do viêm loét dạ dày hoặc bệnh cầu trùng (coccidiosis).
Triệu chứng đi kèm: Heo có thể biểu hiện suy nhược, mất máu, và có thể tử vong nếu không được điều trị.
Đề xuất: Cần sử dụng thuốc chống cầu trùng và điều chỉnh chế độ ăn uống, bổ sung thêm chất xơ để hỗ trợ tiêu hóa. Phương pháp điều trị là dùng kháng sinh đặc trị bệnh cầu trùng kết hợp kháng sinh khác điều trị các vi khuẩn gây bệnh kế phát
+ Bổ sung PRODUCTIVE FORTE cung cấp vitamin, điện giải để chống mất nước.
+ Bổ sung thêm men tiêu hóa PERFECTZYME, ZYMEPRO bổ sung men tiêu hóa giúp hệ tiêu hóa mau chóng hồi phục.
+ Dùng YENLISTIN 40%: Liều pha nước: 1g/16-20 lít nước hoặc 1g/80-100kg P. Liệu trình 3-7 ngày, Liều trộn thức ăn: 100-120ppm.
3. Phân lỏng có mùi hôi bất thường
Phân lỏng có mùi chua:
Bệnh lý liên quan: Đây là biểu hiện của viêm ruột hoại tử do vi khuẩn Clostridium perfringens, hoặc có thể do thức ăn không tiêu hóa tốt, dẫn đến tăng quá trình lên men trong ruột.
Triệu chứng đi kèm: Heo có thể bị đau bụng, tiêu chảy nặng, và có thể chết đột ngột nếu bệnh diễn biến nặng.
Đề xuất: Điều trị bằng kháng sinh và thay đổi chế độ ăn uống để giảm nguy cơ lên men trong ruột.
Phân có mùi rất hôi thối:
Bệnh lý liên quan: Phân có mùi hôi thối đặc trưng có thể liên quan đến nhiễm trùng đường ruột nghiêm trọng hoặc viêm ruột do Clostridium.
Triệu chứng đi kèm: Heo có thể bị tiêu chảy nặng, mất nước, và chết nếu không điều trị kịp thời.
Đề xuất: Cần kiểm tra môi trường sống của heo, vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, và điều trị bằng kháng sinh phù hợp. Xử lý bằng phác đồ tiêm
+ Kháng viêm, giảm đau và hạ sốt: Dùng NASHER TOL liều: 1ml/20kg TT/ngày. Tiêm liên tục 1-2 mũi.
+ Kháng sinh tiêm: NASHER AMX liều 1ml/10kg thể trọng dùng tiêm bắp 3 ngày liên tiếp; NASHER QUIN Liều 2ml/25kgP; SH LINCOMYCIN 1ml/25-30kg P; SUMAZINMYCIN 1ml/10Kg.P trong 3 ngày
+ Trợ sức trợ lực: Dùng ACTIVITON tiêm liều 1 ml/5-10 kg TT
+ Xử lý bằng phác uống
+ Hạ sốt-giảm đau: Dùng PARADISE Liều 1g/1-2 lít nước hoặc trộn 1-2g/1kg thức ăn
+ Kháng sinh uống/ trộn: trộn cám SOLAMOX với liều 20mg/Kp.P kết hợp YENLISTIN liều dùng: 1g/80-100 kg.P liệu trình 3-7 ngày; LINCOVET G.D.H liều 3-4g/10 lit nước kết hợp YENLISTIN liều dùng: 1g/80-100 kg.P
+ Giải độc cấp: UMBROLIVER pha 0,1-1,0 ml/ L nước.
4. Phân lỏng có dạng bọt
Phân lỏng, có dạng bọt:
Bệnh lý liên quan: Đây là dấu hiệu đặc trưng của nhiễm khuẩn E. coli, đặc biệt là ở heo con sau khi cai sữa.
Triệu chứng đi kèm: Heo con thường bị tiêu chảy, mất nước, suy nhược, và có thể tử vong nếu không được chăm sóc kịp thời.
Đề xuất: Sử dụng kháng sinh chống E. coli và bổ sung điện giải để tránh mất nước VITROLYTE, T.C.K.C, SUPER C 100…, đồng thời cần đảm bảo vệ sinh chuồng trại và nguồn nước sạch.
5. Phân có chất nhầy
Phân có lẫn chất nhầy:
Bệnh lý liên quan: Chất nhầy trong phân là dấu hiệu của viêm ruột hoặc nhiễm ký sinh trùng đường ruột, như giun tròn hoặc các loại giun sán khác.
Triệu chứng đi kèm: Heo có thể biểu hiện đau bụng, tiêu chảy kéo dài, giảm cân, và kém phát triển.
Đề xuất: Cần thực hiện tẩy giun định kỳ cho heo IVERTIN 1ml/30kg TT và sử dụng thuốc điều trị viêm ruột.
6. Phân rắn, có hình dạng bất thường
Phân khô, cứng, và có dạng viên:
Bệnh lý liên quan: Đây là dấu hiệu của táo bón, có thể do thay đổi thức ăn, thiếu nước, hoặc stress.
Triệu chứng đi kèm: Heo có thể bị đau bụng, chướng bụng, khó chịu, và có thể dẫn đến tắc nghẽn ruột nếu không được xử lý.
Đề xuất: Cần cung cấp đủ nước, bổ sung chất xơ vào khẩu phần ăn, và theo dõi heo để đảm bảo phân trở lại trạng thái bình thường.
Kết luận:
Việc nhận biết các dấu hiệu bệnh lý qua phân heo là một phương pháp quan trọng trong quản lý sức khỏe đàn. Người chăn nuôi cần thường xuyên quan sát phân của heo và lưu ý các dấu hiệu bất thường để có thể phát hiện bệnh sớm và xử lý kịp thời, từ đó đảm bảo sức khỏe cho đàn heo và tối ưu hóa hiệu quả chăn nuôi.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN BIẾT HEO BỊ BỆNH TRONG ĐÀN
Nhận biết bệnh sớm là ưu tiên hàng đầu trong việc quản lý trại. Nó được thực hiện bởi các kỹ thuật viên phụ trách bằng cách sử dụng thị giác, âm thanh, cảm ứng và mùi để phát hiện heo có biểu hiện bất thường và phân biệt nó với những con khỏe mạnh.
Mỗi ngày, việc kiểm tra lâm sàng tất cả lợn trong chuồng cần phải được thực hiện. - Trên một trang trại 100 lợn nái, việc này có thể mất đến nửa tiếng đồng hồ mỗi ngày, và trên một trang trại lớn hơn, nó trở thành một nhiệm vụ quan trọng hàng ngày nhưng có thể được phân chia giữa các cấp bộ phận. Vấn đề của nhà quản lý là tổ chức trang trại của họ sao cho nhân viên có một khoảng thời gian để thực hiện chức năng này.
I. Việc sử dụng các dấu hiệu để nhận biết tình trạng sức khỏe heo
1/ Bỏ ăn là một trong những dấu hiệu rõ ràng ở heo được nhốt riêng mỗi con một ô chuồng, chẳng hạn như ở trại nái, nhưng ở heo nuôi theo nhóm thì không dễ để phát hiện nếu chỉ vài cá thể bỏ ăn. Khi heo không ăn, hoặc giảm lượng ăn vào mà chúng vẫn có vẻ bề ngoài bình thường, phải ngay lập tức nghi ngờ và kiểm tra nguồn cấp và chất lượng nước uống. Thiếu nước hoặc nước bị nhiễm khoáng, hóa chất cũng thường là nguyên nhân gây ra bỏ ăn đột ngột trên toàn đàn. Nếu nước không phải là vấn đề thì cần xem xét các dấu hiệu của bệnh.
2/ Lờ đờ cũng dễ được nhanh chóng phát hiện như dấu hiệu sớm của bệnh
3/ Run rẩy và lông dựng đứng là một đặc tính quan trọng của bệnh và là một trong những dấu hiệu rất sớm của bệnh viêm màng não hoặc nhiễm trùng liên cầu khuẩn ở khớp trên heo con còn bú. Hãy tìm kiếm dấu hiệu này vào lần kiểm tra tiếp theo đối với từng cá thể trong ổ đẻ. Một heo con nằm trên bụng của mình và run rẩy với lông dựng đứng thường là dấu hiệu của nhiễm trùng huyết (vi khuẩn vào trong máu) và hậu quả là tiêu chảy và không đi được.
4/ Giảm trọng lượng cơ thể là một dấu hiệu của bỏ ăn hoặc mất nước do tiêu chảy hoặc viêm phổi.
5/ Chảy nước mũi hoặc mắt thường là biểu hiện của một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên. Tiết nước bọt rất nhiều từ miệng có thể là do bệnh lở mồm long móng.
6/ Ở lợn nái, thải dịch âm hộ có thể do viêm âm đạo, viêm bàng quang, viêm bể thận hay viêm nội mạc tử cung.
7/ Thay đổi về tình trạng của phân có thể do nhiều nguyên nhân bệnh khác nhau hay cũng có thể là hoàn toàn bình thường. Khi thấy dấu hiệu chung chung này thì cần tìm thêm những dấu hiệu khác như chất nhầy hoặc máu (biểu hiện của bệnh lỵ, nhiễm salmonella, loét dạ dày hoặc tăng sinh đường ruột xuất huyết). Táo bón trên nái có thể là do sự phát triển của viêm-thủy thũng tuyến vú và mất sữa sau đẻ.
8/ Ói mửa có thể là dấu hiệu của bệnh viêm dạ dày-ruột truyền nhiễm nếu trên nhiều cá thể, hoặc ở từng cá nhân thì có thể do viêm loét dạ dày. Trên heo theo mẹ, viêm dạ dày-ruột thường liên quan đến nhiễm trùng E. coli. Tiêm penicillin tác dụng kéo dài cũng có thể gây nôn mửa ở heo.
9/ Những thay đổi trên da giúp xác định bệnh: đó có thể là những tổn thương cấp tính hoặc mãn tính của ghẻ và chấy rận; bệnh dấu son không thể hiện rõ ràng để thấy bằng mắt thường nhưng việc dùng tay vuốt trên da heo sẽ chỉ giúp làm lộ ra những tổn thương của bệnh này. Những nốt thâm tím ở những điểm tận cùng của cơ thể (rìa tai, gốc móng, mõm) có thể chỉ ra bệnh nhiễm trùng cấp tính do virus, nhiễm trùng huyết cấp do vi khuẩn hoặc trúng độc, như đã thấy trong bệnh cúm, bệnh tai xanh hoặc viêm vú và viêm tử cung cấp tính. Viêm phổi cấp tính hoặc viêm phổi kết hợp viêm màng bao tim cũng có thể gây biểu hiện tương tự.
10/ Tỷ lệ hô hấp: nên để ý xem hơi thở có biểu hiện là thở sâu thì thường là do phổi hóa thịt nên cơ thể thiếu oxy, còn nếu thở cạn hay thở bụng là biểu hiện của viêm màng phổi và đau.
11/ Cuối cùng là hiện trường xung quanh xác chết của một con lợn cũng là những chi tiết quan trọng, nên tiến hành khám nghiệm tử thi. Thời gian và địa điểm con lợn chết trong đàn kết hợp với những quan sát lâm sàng thường có thể giúp ích nhiều trong việc xác định và tìm hiểu một vấn đề.
II. Những thay đổi trong hành vi của heo
Lợn là một con vật có tính bầy đàn nên khi khỏe mạnh, chúng sẽ chơi chung và tụ tập theo nhóm. Tuy nhiên, khi bệnh nó có xu hướng nghỉ ngơi, nằm riêng một mình hoặc thường xuyên bị từ chối bởi những con lợn khác, thậm chí có khi bị các con khác tấn công. Ngược lại, khi nhiều con cùng bệnh thì chúng sẽ tụ tập lại, co ro và nằm chồng lên nhau, không muốn đứng lên. Khi lợn có những biểu hiện đó, ta cần quan sát và tìm hiểu kỹ hơn.
III. Đánh giá qua mùi
Chất lượng không khí có thể được phát hiện thông qua khứu giác của chúng ta. Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận mức độ thông thoáng của chuồng trại, cấp độ cao của khí độc (ammoniac, H2S), độ ẩm cao hay thấp. Những mùi gì gây khó chịu cho chính chúng ta cũng có khả năng gây khó chịu cho heo.
Sờ nắn, đụng chạm: Đây là điều cần thiết để thăm khám một con lợn bệnh, nhằm phát hiện những thay đổi về nhiệt độ cơ thể, dịch tiết bất thường hoặc cục u trên da. Cần sờ nắn 4 chân trong trường hợp nghi què quặt, gãy xương hoặc sưng khớp. Trên lợn nái mới đẻ, luôn luôn rờ̀ bầu vú để phát hiện viêm vú, mất sữa.

KỸ THUẬT BẢO QUẢN VÀ TIÊM VACCINE CHO VẬT NUÔI
Để đợt tiêm phòng vụ xuân bảo đảm nhanh gọn, đúng đối tượng, đúng thời gian, phát huy tối đa hiệu quả của vaccine, tạo miễn dịch đồng loạt, khép kín, Chi cục Chăn nuôi và Thú y hướng dẫn kỹ thuật bảo quản và tiêm vaccine phòng bệnh cho đàn vật nuôi như sau:
1. Bảo quản vaccine
Tùy từng loại vaccine sẽ có các điều kiện bảo quản khác nhau theo hướng dẫn được ghi trên nhãn lọ vaccine. Khi vận chuyển, vaccine phải được đựng trong dụng cụ chuyên dụng, tránh va đập mạnh, ánh sáng trực tiếp.
2. Đối tương và kỹ thuật tiêm vaccine
– Đối tượng: Toàn bộ đàn gia súc, gia cầm được nuôi trong các nông hộ và có sự giám sát về kỹ thuật của cán bộ thú y.
– Kỹ thuật tiêm phòng: Đối với vaccine nhược độc đông khô, khi sử dụng phải được pha bằng nước sinh lý của nhà sản xuất. Vaccine pha xong nên dùng càng sớm càng tốt. Đối với vaccine vô hoạt, vaccine vi khuẩn nhược độc dạng lỏng, khi dùng phải lắc kỹ, tiêm trong ngày không hết phải hủy.
Có thể tiêm nhiều loại vaccine cho con vật cùng một lúc. Tuy nhiên, mỗi loại vaccine phải tiêm ở các vị trí khác nhau và dùng riêng bơm, kim tiêm. Chỉ tiêm vaccine cho động vật hoàn toàn khỏe mạnh. Theo dõi tình trạng của con vật sau khi tiêm vaccine ít nhất từ 1 – 2 giờ, chủ động thuốc để xử lý khi con vật bị phản ứng vaccine.
Khi tiêm, gia súc phải bảo đảm được khống chế an toàn cho người tham gia tiêm phòng. Dụng cụ dùng cho tiêm phòng vaccine phải được vô trùng tuyệt đối mới được sử dụng. Vị trí tiêm cho mỗi loại vật nuôi khác nhau theo hướng dẫn của cán bộ thú y.
3. Giám sát sau tiêm phòng
Sau mỗi đợt tiêm phòng, Chi cục Chăn nuôi và Thú y xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giám sát sau tiêm phòng vaccine gia súc, gia cầm, đặc biệt là các bệnh cúm gia cầm, dịch tả lợn cổ điển, bệnh lở mồm long móng gia súc trên địa bàn tỉnh để đánh giá hiệu quả công tác tiêm phòng, chất lượng vaccine. Thời điểm lấy mẫu sau 21 ngày kể từ thời điểm tiêm phòng gần nhất.
4. Giám sát dịch bệnh gia súc, gia cầm
Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh yêu cầu cán bộ thú y cơ sở và người chăn nuôi thường xuyên theo dõi, giám sát đàn gia súc, gia cầm trong suốt quá trình nuôi. Nếu thấy gia súc, gia cầm, động vật thủy sản có biểu hiện của bệnh truyền nhiễm phải báo cáo ngay cho chính quyền cơ sở và cơ quan thú y các cấp để tổ chức điều tra, xác minh, lấy mẫu của gia súc, gia cầm mắc bệnh, nghi mắc bệnh để chẩn đoán xác định tác nhân gây bệnh, phục vụ cho công tác phòng chống dịch.
Chủ vật nuôi chủ động kê khai hoạt động chăn nuôi của gia đình với chính quyền địa phương theo quy đinh của Luật Chăn nuôi.

HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG CHUỒNG NUÔI HUƠU SAO
Việc xây dựng chuồng trại phải đạt được các mục đích sau đây: Có độ bền vững, chắc chắn để hươu không chui ra khỏi chuồng trại. Phải phù hợp với đặc tính sinh lý của hươu. Phải tiết kiệm, không cầu kỳ mà vẫn đảm bảo phù hợp với các yêu cầu về khí hậu và vật nuôi.
Xây dựng chuồng trại phải quan tâm từ vị trí, nền, mặt bằng, diện tích, vật liệu xây dựng, hướng chuồng… không nên bỏ qua một chi tiết nào.
1. Vị trí chuồng nuôi hươu
Mặc dù đã được con người nuôi dưỡng từ lâu nhưng hươu sao vẫn rất ít quen người. Trong đó, hệ thần kinh vẫn còn nguyên vẹn các phản xạ tự nhiên của con vật hoang dại yếu hèn, luôn chạy trốn trước những biến động đột ngột. Vì thế, vị trí chuồng phải đảm bảo các yếu tố sau đây:
– Chuồng nuôi phải cách nhà ở một khoảng hợp lý, tránh ô nhiễm, tiếng ỗn.
– Phải đảm bảo kín về mùa đông, mát về mùa hè. Không nằm ở ngay nút giao lưu qua lại của người và các động vật khác thường gây ra tiếng động, mùi vị.
– Phải cao ráo, không có các loại cây thường xuyên rụng lá, rụng cành gây tiếng động tự nhiên (nếu đã có cây cối thỉ phải chặt ngay).
– Cần phải tạo ra một khoảng cách thích hợp giữa chỗ đi lại của con người, gia súc và chuồng, để không làm cho con vật sợ hãi khi có người hoặc vật nuôi xuất hiện…
Tóm lại, tuỳ vào sự bố trí vườn nhà cụ thể mà mỗi gia đình có thể chọn cho mình một vị trí thích hợp theo kinh nghiệm vừa kín vừa hở như nói ở trên.
2. Hướng chuồngchuồng nuôi hươu
Việt Nam do khí hậu nhiệt đới gió mùa nên ta chọn hướng chuồng là hướng Nam hoặc Đông Nam để mát về mùa hè, ấm về mùa đông và ánh sáng được điều hòa suốt trong ngày, không gây ra chênh lệch cường độ ánh sáng lớn.
3. Nền chuồngchuồng nuôi hươu
Phải có độ dốc từ 1 – 20 để thoát nước bẩn. Phải cao hơn vùng đất xung quanh.
– Nền đất nện: Đây là loại nền thông dụng có ưu điểm là chi phí ít. Nhưng trong một sộ trường hợp, hươu có thể đào bới, gây ra sự lỗi lõm và tích nước tiểu, phân… làm ô nhiễm chuồng. Khi chưa có điều kiện làm nền gạch, nền đất nện chặt vẫn là loại nền thích hợp.
– Nền gạch: Đây là loại nền tốt nhất, việc đi lại sinh hoạt của hươu rất dễ dàng, không gây tích nước, ấm về mùa đông, mát về mùa hè. Trong điều kiện thiếu khoáng thì nền gạch cũng có thể bổ sung một phần, con vật liếm gạch để tăng khoáng cho cơ thể.
Cách làm: Dùng gạch đất dung (quá lửa) hay gạch lành tốt xây nằm hay xây nghiêng với vữa xi măng có miết mạch cân thận.
– Nền xi măng: Trước đây có nhiều người nghĩ rằng đây là loại nền tốt nhất. Nhưng trong thực tế, nền xi măng có nhược điểm lớn, lạnh về mùa đông, ẩm ướt về mùa hè, trong thi công nếu làm bóng mặt nền để dễ dọn chuồng thì thường làm cho hươu bị trượt chân, ngã…
Hướng phát triển là làm nền xi măng không nhẵn mặt, trong trường hợp có điều kiện thì làm thành từng tấm bê tông, ghép lại tạo điều kiện chống ẩm tốt hơn.
– Nền gỗ: ở những nơi có điều kiện thì có thế làm nền bằng gỗ với loại gỗ dai không thấm nước bằng cách ghép các tấm gỗ lại với nhau. Nền đất phía dưới cần được nện kỹ, chống chuột làm tổ.
4. Diện tích chuồng nuôi hươu
– Với hươu đực ít nhất cũng phải được 6m2/con (theo kích thược 3m x 2m hay 2,5m x 2,5m) và có điều kiện thì nên làm rộng hơn. Những con đực đã được chọn làm đực giống để phối cho các con cái của nhiều gia đình thì chuồng phải đủ rộng để chúng giao phối trong chuồng tốt.
– Với hươu cái: khoảng 5 – 6m2 /con là vừa, ít nhất phải được 4m2/con.
5. Vật liệu xây dựng chuồng nuôi hươu
– Gỗ: là vật liệu chủ yếu trong, xây dựng chuồng trại cho hươu. Ngoài việc dùng để làm các ô chuông, cột và róng, các kết cấu còn lại như cột, xà (kết cấu chịu lực mái) đều làm bằng gỗ là tốt nhất. Gỗ từ nhóm 4 trở xuống dùng để làm cột và róng chuồng. Kích thước cột khoảng từ 120 – 150 mm: 120 x 120 hoặc 150 x 150 (mm), róng có kích thước tiết diện khoảng từ 100 x 50 (mm) hoặc 100 x 60 (mm). Liên kết giữa róng và cột tốt nhất là đục lỗ hoặc dùng đinh. Sự liên kết giữa cột và róng phải thật chắc chắn.
Cột và róng nên bào trơn, mặt trong chuồng cân được vát cạnh để phòng gây xây xát cho hươu.
Chuồng nên làm cao 2m và chia làm 2 phần: 1m phía dưới: róng sẽ đóng dầy khoảng từ 50 – 60 (mm) để đề phòng hươu chui ra, nhất là hươu mới sinh, 1m phía trên đóng thưa hơn khoảng 100mm. Tất cả các róng nên đóng ngang (kinh nghiệm cho thấy: đóng róng dọc hươu rất dễ cho đầu ra ngoài, nếu không ra được do mông to hơn đầu thì hươusẽ đập đầu vào chuồng mà chết (kể cả hươu con và mẹ).
Cửa chuồng cũng không nên làm róng dọc. Khi làm cần chú ý: róng dưới cùng chuồng được thay bằng một thanh giằng to hơn róng (gọi là thanh đà). Khoảng cách từ mặt nền đến mép dưới thanh giằng không vượt quá 50 mm nhằm không cho hươu thò chân ra ngoài khi nằm và hươu sơ sinh chui ra khỏi chuồng.
– Phần đỡ mái: Có thể làm bằng gỗ hoặc bằng tre. Tấm lợp có thể dùng ngói các loại, tôn hoặc fibrô xi măng (không nên dùng tấm lớp dễ cháy).
– Lưới thép: Trong điều kiện có kinh tế thì nên làm chuồng bằng lưới thép B40. Đây là loại chuồng thật sự an toàn. Cách làm là: vẫn dùng cột gỗ, chung quanh bọc bằng lưỡi thép. Dùng thép này làm hàng rào cũng rất an toàn và tiện lợi.

ĐẶC ĐIỂM HỆ TIÊU HOÁ HƯƠU SAO
1. Đặc điểm hệ tiêu hoá
Hiểu biết đặc điểm cấu trúc và hoạt động hệ thống tiêu hóa của hươu giúp người nuôi có biện pháp nuôi dưỡng, chăm sóc tốt.
Hệ thống tiêu hóa gồm xoang miệng có răng, lưỡi, các tuyến tiêu hóa để lấy và đưa thức ăn vào hệ thống tiêu hóa. Thực quản là ống nối giữa xoang miệng và dạ dày dê hướng và vận chuyển thức ăn từ xoang miệng xuống dạ dày. Dạ dày túi (4 túi) là nơi thức ăn được lên men và tiêu hóa cơ học, vi sinh vật và hóa học. Hệ thống ruột gồm ruột non, ruột già làm nhiệm vụ tiêu hóa, hấp thụ dinh dưỡng và vận chuyển thức ăn từ dạ dày xuống trực tràng để bài tiết ra ngoài. Các tuyến tiêu hóa như: gan, mật, tuy… tham gia quá trình tiêu hóa thức ăn bằng các dịch vị.
Hươu saocũng như nhiều động vật ăn cỏ có hàm răng cửa khá phát triển với chức năng cắt, xé và nghiền thức ăn, không có răng hàm (Hươu có 32 răng).
2. Dạ dày hươu sao có cấu tạo phức tạp với 4 túi
Dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách, dạ múi khế. Trong 4 túi, dại cỏ có dung tích lớn nhất từ 6 – 10 lít, là nơi chứa đựng lượng thức ăn ban đầu trong quá trình tiêu hó Nhờ sự nhu động nhẹ nhàng qua thành dạ cỏ, thức ăn được xáo trộn và nhào luyện thêm với nước để tiếp tục di chuyển xuống dạ tổ ong.
Trong giai đoạn ở dạ cỏ, nhờ hệ vi sinh vật và hệ men tiêu hóa, các chất xơ bước đầu phân giải thành đường đơn và chất béo. Trong giai đoạn nhai lại, các mảnh xơ tiếp tục được nghiền, xé và trộn lẫn với vi sinh vật, men tiêu hóa ở dạ cỏ.
Ở dạ tổ ong những thức ăn còn thô lại đượchươu sao ợ lên miệng để nhai lạ Trong lần nhai lại này, thức ăn được nhào luyện với nước bọt lần nữa rồi đi xuống dạ lá sách.
Qua dạ lá sách, thức ăn được chuyển xuống múi khế. Khác với dạ cỏ, dạ tổ ong và lá sách không có các tế bào tiết dịch tiêu hóa, ở dạ múi khế có các tế bào tuyến tiết dịch vị phân giải các chất dinh dưỡng. Dạ múi khế có vai trò tương tự như dạ dày đơn của các loài động vật ăn thịt…
Hệ vi sinh vật dạ cỏ có vai trò rất quan trọng trong quá trình tiêu hóa và phân giải thức ăn. Các vi sinh vật dạ cỏ còn có khả năng tự tổng hợp được các loại vitamin nhóm B và nhóm K. Khi qua dạ múi khế, toàn bộ hệ vi sinh vật trộn trong thức ăn đều bị dịch vị tiêu hóa ở đây diệt sạch, chuyển thành nguồn đạm chính cung cấp chohươ
Đây là đặc điểm rất quan trọng, trong thực tếhươu không cần phải ăn nhiều thức ăn giàu đạm mà vẫn có đủ đạm để nuôi cơ thể mì Quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng chủ yếu diễn ra ở ruột non. Vì vậy, hươu sao có ruột non khá dài và mỏng như ruột thỏ. Bên trong thành ruột có hệ thống lông nhung để tăng khả năng hấp thụ lên nhiều lần. Ruột non dài trung bình từ 18 – 25m gấp 10 -15 lần chiều dài thân.
Những chất không hấp thụ được hoặc còn rất ít chất dinh dưỡng tiếp tục chuyển xuống ruột già. Ruột già với chức năng chủ yếu hấp thụ nước và những chất dinh dưỡng còn sót. Vì vậy. các chất xơ thải về nuôi ruột già trở nên khô dần và cô thành viên phân đặc, sau đó được thải ra ngoài. Vì năng lượng và vật chất tích lũy được ở cây xanh thấp, để đảm bảo cho sự duy trì và phát triển của mình,hươu sao phải ăn nhiều và thải các chất cặn bà thường xuyê Trung bình từ 30 phút đến 1 giờ chúng bài tiết một lần, mỗi lần khoảng 40 – 50 viên, có khi hàng trăm viên.
Đặc điểm của quá trình tiêu hóa còn cho thấy, nếu nguồn thức ăn ăn vào tăng lên thì thời gian lưu giữ thức ăn trong hệ thống tiêu hóa cũng như khả năng tiêu hóa bị giảm xuống. Nghiên cứu về các vấn đề nêu trên không chỉ có ý nghĩa lý thuyết mà còn có ý nghĩa trong nuôihươu sao với hình thức cho ăn từng ít một và nhiều lần trong ngày sẽ làm tăng khả năng tiêu hóa, tiết kiệm thức ăn và năng lượng hao phí trong quá trình dinh dưỡ

CÁC THÔNG SỐ TRẠI NÁI
Sau một thời gian tìm hiểu về ngành chăn nuôi heo công nghiệp ở nước ta, cho chúng tôi thấy chăn nuôi heocông nghiệp hiện nay đang đòi hỏi người chủ mỗi trang trại cần phải trở thành chuyên gia: chuyên gia kinh tế (cần biết thông tin thị trường, giá cả trong nước, quốc tế, phân tích đánh giá đưa ra những nhận định thị trường . . .) chuyên gia dịch tễ học (hiểu rõ tình hình dịch bệnh trên thế giới, trong nước, khu vực gần trại của mình) cần có kỹ năng quản lý như những giám đốc (quản lý nhân công, xuất nhập, kế toán . . .) Các bác chủ trạng trại ngày nay cần có thêm nhiều kỹ năng quan trọng khác nữa để có thể tham gia vào thị trường chăn nuôi đầy cạnh tranh và ngày một khó khăn hơn. Việc quản lý trang trại sao cho hiệu quả kinh tế, nâng cao sức lao động và giảm thiểu chi phí là một trong những yêu cầu cấp thiết để có thể nâng cao sức cạnh tranh và tăng giá trị lợi nhuận.
Các “chuyên gia” chăn nuôi tại nước ta vẫn đang chăn nuôi dựa theo kinh nghiệm và chưa áp dụng nhiều khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi đặc biệt là những trang trại quy mô vừa (50 – 150 heo nái). Có một trong những khía cạnh trong quản lý trang trại heo nái công nghiệp rất quan trọng đó là các “thông số trại nái”. Một khái niệm khá mới với tôi cũng như nhiều người đang chăn nuôi khác, tuy nhiên nó không quá xa lạ với mỗi người chăn nuôi vì ngày ngày chúng ta nhìn thấy nó, làm nó tốt lên mà không để ý đến hay chưa chú trọng tới.
Việc cải thiện các thông số trại nái trong chăn nuôi công nghiệp ở nước ta hiện vẫn chưa được các chủ trại thực sự quan tâm. Các chủ trại chăn nuôi vẫn đang tìm cách giảm chi phí chăn nuôi bằng nhiều cách trong đó có những giải pháp không thực sự mang lại hiệu quả mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro trong đó (ví dụ như: hạn chế sử dụng thuốc bổ, điện giải. Hạn chế dùng kháng sinh phòng bệnh. Lựa chọn thức ăn kém chất lượng hơn . . .) Thay vào đó, người chăn nuôi chúng ta nên áp dụng các khoa học kỹ thuật mới vào trong chăn nuôi, đây mới là cách giảm thiểu chi phí, giảm giá thành mà lại phát triển bền vững.Việc cải thiện thông số trại nái là một trong những giải pháp được nhiều trại áp dụng thành công và rất bền vững đó là nâng cao hiệu quả chăn nuôi, nâng cao sức sản xuất của trại bằng cách cải thiện các thông số trại nái.
Với mỗi trại chăn nuôi heo công nghiệp thông số trại nái tức là tỷ lệ mỗi loại nái trên tổng số nái trong trại.
1. Với một trại chăn nuôi heo nái ta cần biết chỉ số cơ cấu đàn chăn nuôi
Cơ cấu đàn chăn nuôi của trại cần tính toán là số heo nái trong trại
Đẻ lứa
1
2
3
4
5
6
7
8
>9
Tỷ lệ heo nái %
17
15
14
13
12
11
10
5
3
Tỉ lệ thay đàn 33% ví dụ đối với trại 600 heo nái thì trong 1 năm cần thay 198 con, 1 tháng cần thay 17 con và 1 tuần cần thay 4 con.
Tỉ lệ heo đực giống/heo nái = 1/60 (chú ý heo đực giống khai thác tinh nhân tạo và trại phối tinh nhân tạo 100%)
Ghi chú: Heo hậu bị phối mang bầu được gọi là lứa 1, đẻ xong 1 lứa gọi là lứa 2.
2. Thông số cơ cấu heo nái trong trại
Tất cả heo nái trong trại cần được chia theo các nhóm sau: nhóm heo mang thai, nhóm heo nuôi con, nhóm heo cai sữa và nhóm heo chờ phối (heo bị lốc, chưa lên giống . . .)
Bảng nhóm heo nái tại trại
Nhóm nái
Tuần
Mang thai
16.3
Nuôi con
3
Nái cai sữa
1
Phối lại và lốc
1
Tổng cộng
21.3
Như vậy để tính số heo đẻ trên tuần ta lấy tổng số heo chia cho 21,3. Từ đó có thể tính được số nái phối trên một tuần (số nái phối trên một tuần bằng số nái đẻ chia cho tỷ lệ phối đậu)
Hiện nay với những trại có tỷ lệ phối đậu là 90% thì:
– Tỷ lệ heo đẻ trên tuần là 4,6 – 4,7%
– Tỷ lệ nái cần phối trên tuần là 5,1 – 5,2%
Ví dụ: trại 600 heo nái, tỷ lệ phối thành công là 90%.
Số nái đẻ một tuần là 600/21,3 = 28 heo đẻ → số heo cần phối mỗi tuần bằng
28 x 100 : 90 = 31 heo.
Như vậy trại sẽ có
– Số lượng heo nái chờ đẻ = 28 (nái)
– Số lượng heo nái nuôi con = 84 (nái)
– Số lượng heo nái mang thai từ 1 → 15 tuần = 429 (nái)
– Số lượng heo nái cai sữa = 28 (nái)
– Số heo chờ phối = 31 heo
3. Cơ cấu chuồng nuôi tại trại.
Dựa vào các thông số về cơ cấu trại nái ta có thể biết được cơ cấu chuồng nuôi heo nái phù hợp.
+ Tỉ lệ heo nọc/heo nái là 1/60
+ Chuồng heo nái mang thai: Số lượng heo nái x (5,2% heo phối/tuần) x 16 tuần
+ Chuồng heo nái đẻ: Số lượng heo nái x (4,68% heo đẻ/tuần) x 6 tuần
+ Chuồng cách ly: Số hậu bị thay đàn/tháng x 2 tháng.
Bảng tỷ lệ số chuồng cho trại 600 nái
Chuồng heo nọc
10
Chuồng heo nái mang thai
499
Chuồng heo nái đẻ
168
Chuồng cách ly
Nhốt được 40 heo hậu bị
4. Kết luận
- Như vậy mỗi trại chănnuôi heochuyên nghiệp cần hiểu rõ các chỉ số về số heo đẻ trên tuần, số heo cần phối trên tuần và chỉ số heo cần loại thải cũng như bổ sung vào đàn nái để có được kế hoach nuôi thịt cũng như kế hoạch. Việc nâng cao các chỉ số trại là một trong những yếu tố giúp trại của bạn có thể cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường.
- Trên đây là các thông số lý thuyết mà các trại cần hướng tới để nâng cao sức cạnh tranh của trại trong thời kỳ hội nhập, đưa chăn nuôi nước ta vươn ra thế giới một cách bền vững.

BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT KÍ SINH TRÙNG ĐƯỜNG RUỘT Ở GÀ THẢ VƯỜN
Ký sinh trùng là một sinh vật cư trú hoặc sống trên một sinh vật khác (được gọi là vật chủ) và hưởng lợi từ điểm yếu của sinh vật khác đó. Giun và động vật nguyên sinh là hai loại ký sinh trùng bên trong gây hại cho gà. Mức độ nhiễm trùng thấp thường không gây ra nhiều mối đe dọa và có thể không cần điều trị. Không tiết kiệm, phát triển và chuyển đổi thức ăn kém, giảm sản lượng trứng và trong trường hợp nghiêm trọng là tỷ lệ tử vong là các triệu chứng lâm sàng của tình trạng nhiễm ký sinh trùng. Ngoài ra, ký sinh trùng có thể làm tăng khả năng mắc bệnh của đàn hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh hiện có.
Gà trong đàn gia cầm nuôi ở sân thường bị nhiễm ký sinh trùng đường ruột (giun). Sự hiện diện của một vài ký sinh trùng thường không gây ra vấn đề gì. Mặt khác, quần thể lớn có thể gây hại nghiêm trọng đến sự tăng trưởng, sản xuất trứng và sức khỏe nói chung. Số lượng trứng ký sinh trùng có trong môi trường sống của gà mái là một yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến mức độ nghiêm trọng của bệnh nhiễm trùng. Bằng cách ăn ốc sên, giun đất hoặc các loại côn trùng khác (vật chủ trung gian) có thể truyền trứng ký sinh trùng hoặc bằng cách tiêu thụ thức ăn, nước hoặc chất độn chuồng bị nhiễm bẩn, gà có thể trực tiếp nhiễm trứng ký sinh trùng.
Thiếu dinh dưỡng, phát triển và chuyển đổi thức ăn không đầy đủ, giảm sản lượng trứng và trong trường hợp nghiêm trọng, thậm chí tử vong là các triệu chứng lâm sàng của bệnh ký sinh trùng. Ngoài ra, ký sinh trùng có thể làm suy yếu sức đề kháng của đàn gia cầm đối với bệnh tật và làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh hiện có.
Giun tròn lớn (Ascaridia galli) là loại giun đường ruột gây hại nhiều nhất. Chim non bị ảnh hưởng nặng nề hơn. Một chút nhiễm trùng thường không được chú ý. Tuy nhiên, một số lượng lớn giun cản trở quá trình hấp thụ thức ăn, dẫn đến tăng trưởng và năng suất kém. Trong trường hợp nhiễm trùng nghiêm trọng, giun thực sự có thể làm tắc ruột, có thể gây tử vong. Những con chim bị ảnh hưởng sẽ lãng phí thức ăn và dễ mắc các bệnh khác hơn. Bằng cách tiêu thụ châu chấu hoặc giun đất đang chứa ký sinh trùng, hoặc bằng cách trực tiếp ăn phải trứng ký sinh trùng trong chế độ ăn, nước hoặc chất độn chuồng bị ô nhiễm phân, giun tròn có thể lây truyền từ chim này sang chim khác.
Giun manh tràng là một loại giun khác thường được phát hiện ở gà (Heterakis gallinarum). Mặc dù hiếm khi gây ra vấn đề cho gà, nhưng ý nghĩa kinh tế chính của nó xuất phát từ chức năng là vật mang vi khuẩn Histomonas melegridis, gây ra bệnh đầu đen chết người ở gà tây. Sinh vật histomonad từ phân gà được giun đất ăn vào cùng với trứng của giun manh tràng. Gà tây bị bệnh sau khi ăn giun đất. Gà tây cũng có thể ăn trực tiếp sinh vật histomonad từ trứng giun manh tràng. Do đó, không bao giờ nên nuôi chung gà mái và gà tây hoặc để gà tây sử dụng một phạm vi mà gà đã từng sử dụng.
Giun tròn nhỏ là một loại ký sinh trùng đường ruột khác có thể gây ra vấn đề (Capillaria sp.). Những ký sinh trùng này xâm nhập vào ruột, gây chảy máu và làm dày thành ruột, làm suy yếu khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của cơ thể và cản trở sự phát triển. Bằng cách tiêu thụ trứng ký sinh trùng hoặc các vật trung gian khác chứa ký sinh trùng, chẳng hạn như giun đất, côn trùng hoặc các loại giun tròn nhỏ khác, giun tròn nhỏ có thể lây truyền trực tiếp từ chim này sang chim khác. Ngược lại với các loại giun khác, sán dây phải được truyền qua vật chủ trung gian, chẳng hạn như ốc sên, sên trần, giun đất, bọ cánh cứng hoặc ruồi.
Quản lý dinh dưỡng, vệ sinh và điều trị đúng cách là cần thiết để ngăn ngừa và kiểm soát nhiễm giun ở đàn gà nuôi sau nhà. Gà cần chế độ ăn cân bằng, tập trung vào việc bổ sung đủ vitamin A và B. Người ta đã chứng minh rằng thiếu những chất này làm tăng nguy cơ nhiễm ký sinh trùng ở người.
Dọn sạch hoàn toàn chất thải của gà giữa các đàn.
Cố gắng giữ rác khô ráo nhất có thể.
Tránh tụ tập đông người.
Giữ chim bồ câu, các loài chim khác và chim hoang tránh xa gà mái. Chúng có thể bị nhiễm trùng và thải trứng giun.
Để ngăn ngừa phân tích tụ, hãy thoát nước đầy đủ cho chuồng và thường xuyên thay đổi nơi trú ẩn.
Không cho chim lại gần đất mới cày vì chúng có thể ăn giun đất và các loại côn trùng khác.
Để giảm số lượng côn trùng, hãy sử dụng thuốc trừ sâu.
Bằng cách giảm mức ký sinh trùng ở những loài chim bị ảnh hưởng nghiêm trọng, việc điều trị cho gà để giảm ký sinh trùng đường ruột có thể giúp ích cho người chăn nuôi. Kết quả là, sẽ có ít trứng ký sinh trùng tích tụ trong môi trường hơn. Các bệnh giun sán cụ thể cần có phương pháp điều trị cụ thể. Trước khi điều trị, bác sĩ thú y của bạn nên xác định những loại giun cụ thể đang làm phiền gà của bạn. Tổn thất do giun sán đường ruột nên được giảm thiểu bằng cách sử dụng thuốc đúng cách, quản lý tốt và các quy trình vệ sinh.

BỆNH THIẾU MÁU TRUYỀN NHIỄM TRÊN HEO
1. Nguyên nhânbệnh mycoplasma suis
- Bệnh do vi khuẩn Mycoplasma suis thuộc giống Mycoplasma gây ra. Có dạng hình cầu hoặc oval, kích thước khoảng 0,8 μm – 2,5 μm. Do Mycoplasma suis kí sinh trên và trong tế bào hồng cầu nên heo bị nhiễm M. suis có tình trạng giảm tỷ lệ và số lượng hồng cầu, nồng độ hemoglobin, glucose và sắt, trong khi nồng độ bilirubin trong máu gia tăng, dẫn đến sự thiếu máu cấp hoặc mãn tính ở heo nhiễm, làm giảm năng suất, gia tăng tỷ lệ nhiễm kế phát, chết do bội nhiễm ở tất cả các nhóm heo nhiễm M. suis (Ritzmann et al., 2009).
Vi-khuẩn-Mycoplasma-suis
2. Dịch tễ bệnh mycoplasma suis
- Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi trên heo. Trên các nghiên cứu trên thế giới, tỉ lệ nhiễm sẽ khác nhau tuỳ vào khu vực địa lí và độ tuổi của heo, đặc biệt tỉ lệ heo nái nhiễm trong các trang trại thường khá cao. Ở Đức, có đến 40,8% trại nhiễm M. suis với khoảng 13,9% heo choai (20 – 30 kg) dương tính với M. suis (CSIRO, 2012), và theo Stadler et al. (2019) tỷ lệ heo con sơ sinh trước khi bú dương tính với M. suis là 14,35%, trong khi có có đến 31,25% heo nái dương tính với M. suis. Trong khi đó tỷ lệ heo dương tính với M. suis tại Úc ở mức rất thấp, chỉ dao động trong khoảng 4,29 – 6,45 % (CSIRO, 2012). tại Pháp đã ghi nhận có đến hơn 50% nái dương tính với M. suis, ở mọi lứa đẻ.
- Bệnh lây lan chính qua đường máu, không qua tinh dịch, nước bọt. Đặc biệt giai đoạn đầu heo con theo mẹ – thời điểm thực hiện các thao tác kĩ thuật như bấm nanh, cắt đuôi, thiến heo, chủng vacxin,.. nếu không được vệ sinh sát trùng đầy đủ sẽ là mối nguy cơ làm lây lan bệnh giữa các đàn.
- Theo nghiên cứu của Zhongyang et al., (2017) cho thấy tỷ lệ nhiễm M. suis có biến động theo thời tiết, tăng cao hơn vào lúc thời điểm giao mùa, mùa khô. Đây cũng là thời điểm tạo điều kiện thuận lợi cho các côn trùng hút máu sinh sôi nhiều như ruồi, muỗi,….
- Các yếu tố stress từ bên ngoài tác động như thời tiết, môi trường, tình trạng sức khoẻ vật nuôi,…. là những yếu tố nguy cơ làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh do M. suis gây ra. Sự lây nhiễm từ bên ngoài vào chủ yếu do việc nhập heo nhiễm vào trong trại.
3. Triệu chứng bệnh mycoplasma suis
Mycoplasma suis tác động chính gây phá huỷ và giảm lượng tế bào hồng cầu gây tình trạng thiếu máu, da nhợt nhạt – đặc điểm đặc trưng của bệnh dẫn đến tác động xấu tới năng suất sinh sản và khả năng dễ nhiễm với các bệnh truyền nhiễm khác. Bệnh thường xuất hiện ở 2 thể: Cấp tính và mạn tính.
3.1 Thể cấp tính
a. Đối với heo con theo mẹ
Heo còi cọc, da nhợt nhạt, trắng da, xanh xao, gầy yếu
Độ đồng đều thấp, phát triển kém, có nhiều kích thước khác nhau
Vành tai có thể có màu tím bầm, sưng phù mí mắt
Có thể xuất hiện dấu hiệu yếu chân, heo con run, đi không vững, co giật do hạ đường huyết.
Heo-còi-cọc,-vàng-da,-chậm-lớn
Heo-sưng-mí-mắt
b. Đối với heo cai sữa
Mệt mỏi, lờ đờ, giảm ăn, chậm lớn
Da và niêm mạc nhợt nhạt, thể trạng xấu, còi cọc, lông xù
Thở gấp, thở bụng
Hoại tử mỏm tai – mỏm đuôi
Hoại-tử-mỏm-tai-mỏm-đuôi
Heo còi cọc, chậm lớn, lông xù
Heo-co-giật-do-hạ-đường-huyết
c. Đối với heo nái
Sốt cao 40-42°C, nhịp thở tăng, giảm ăn
Thiếu máu, da nhợt nhạt (vàng da), mất sữa
Chậm động dục, sảy thai hoặc đẻ non
Giảm tỉ lệ phối đạt, rối loạn chức năng sinh sản
Heo con sinh ra gầy yếu, còi cọc
Heo-nái-bị-rối-loạn-sinh-sản,-tỉ-lệ-sảy-thai-cao
Heo-nái-bị-rối-loạn-sinh-sản,-tỉ-lệ-sảy-thai-cao
3.2 Thể mạn tính
- Việc điều trị bằng kháng sinh không đủ để loại trừ hoàn toàn M. suis khỏi cơ thể heo nhiễm gây nên tình trạng nhiễm mạn tính, heo có thể trạng kém, vàng da, chậm lớn, da khô, lông xù, suy giảm miễn dịch khiến heo dễ mẫn cảm với các bệnh trên đường hô hấp và đường tiêu hoá, tăng chi phí điều trị. Bên cạnh đó, heo bị nhiễm M. suis ở thể cấp sau khi hồi phục hoặc heo lớn nhiễm M. suis thể nhẹ, có thể chuyển sang tình trạng mang trùng, là vật chủ lưu trữ và truyền lây mầm bệnh.
- Heo nái: Lượng sữa và chất lượng sữa giảm
4. Bệnh tíchbệnh mycoplasma suis
- Da và niêm mạc nhợt nhạt do sự phân hủy các tế bào hồng cầu trong máu, sự tích tụ của các sản phẩm phụ trong gan và sản xuất một chất gọi là bilirubin.
Da-và-niêm-mạc-vàng
Các chỉ số máu bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhất là số lượng hồng cầu, tiểu cầu. Máu loãng, hồng cầu bị biến dạng hình sao, giảm hoặc mất chức năng sinh học.
Ở heo cai sữa, heo choai, có thể xuất hiện bệnh tích loét da ở những vùng rìa tai, đuôi, mõm. Mổ khám có thể ghi nhận được các bệnh tích như: viêm màng và tràn dịch xoang bụng, ngực, bao tim, vách tim mỏng, tim nhão, lách sưng, hạch sưng.
Phổi-sưng, xuất huyết
Các-hạch-bạch-huyết-bị-phù-nề-và-sưng
Tràn-dịch-xoang-bụng-ngực
5. Chẩn đoán
5.1 Chẩn đoán lâm sàng
- Chẩn đoán lâm sàng dựa vào triệu chứng run rẩy của heo con theo mẹ, heo con vẫn bú mẹ và triệu chứng này biến mất sau khi heo được bú sữa mẹ. Ở heo sau cai sữa, heo choai, chẩn đoán dựa trên dấu hiệu vàng da; lông da khô, xù; các vết lở loét ở rìa tai, đuôi… Tuy nhiên, chẩn đoán lâm sàng chỉ có tính định hướng, không đủ để khẳng định bệnh.
5.2 Chẩn đoán phòng thí nghiệm
* Chẩn đoán kháng nguyên
- Nhuộm Giemsa tiêu bản máu và quan sát dưới kính hiển vi: lấy mẫu máu kháng đông làm tiêu bản, nhuộm Giemsa và quan sát dưới kính hiển vi vật kính dầu. M. suis có màu nâu tím, dạng cầu hoặc trực ngắn trên bề mặt hoặc ở rìa của hồng cầu. Bệnh ở thể cấp, M. suis hiện diện nhiều trong mẫu, hồng cầu chưa hoặc ít biến dạng. Ở thể mãn, hồng cầu biến dạng hình sao, M. suis hiện diện rất ít, khó quan sát.
- Xét nghiệm bằng PCR: mẫu máu kháng đông có chứa hồng cầu. Kỹ thuật cho kết quả chính xác, nên sử dụng trong trường hợp bệnh thể mãn.
* Chẩn đoán kháng thể
Có thể sử dụng kỹ thuật HI, ELISA. Tuy nhiên chưa có kit thương mại.
5.3 Chẩn đoán phân biệt
Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác cũng gây triệu chứng vàng da, hoại tử da như bệnh do Salmonella, bệnh liên quan PCV2 (PCVAD - Porcine circovirus associated disease), nhiễm độc tố nấm, viêm gan, thiếu máu do thiếu sắt…
6. Phòng và trị
6.1. Phòng bệnh
- Hiện tại chưa có vắc-xin để phòng bệnh do M. suis. Việc phòng bệnh cần kết hợp các biện pháp quản lý và sử dụng thuốc kháng sinh nhóm tetracyclines (tetracycline, oxytetracycline, doxycycline, chlotetracycline). Do bệnh lây nhiễm qua đường máu và có thể lây truyền từ mẹ sang con, vì vậy để phòng bệnh cần thực hiện đồng bộ các biện pháp sau:
Kiểm tra tình trạng nhiễm suis ở heo hậu bị trước khi nhập đàn. Heo hậu bị nhiễm phải được điều trị bằng tetracyclines trong vòng 7 – 10 ngày, lặp lại việc điều trị sau 1 thá
Sử dụng kim tiêm riêng cho mỗi bầy heo con theo mẹ hoặc cho mỗi cá thể heo sau cai sữa trở đi. Tiệt trùng nghiêm ngặt các dụng cụ cắt rang, cắt rốn, cắt tai.
Quản lý tốt các yếu tố nguy cơ gây tổn thương da của heo: không để heo giành vú, cắn tai, cắn đuôi…
6.2. Trị bệnh
- Thể cấp: Tiêm kháng sinh nhóm tetracyclines với liệu trình 7 – 10 ngày. Nên sử dụng kháng sinh có tác dụng kéo dài để giảm số lần tiêm và stress cho heo. Sau 1 tháng, cấp kháng sinh tetracyclines với liều điều trị qua đường miệng, trong vòng 7 – 10 ngày.
- Thể mãn: cấp kháng sinh qua đường miệng (thức ăn hoặc nước uống) với liệu trình 7 – 10 ngày. Lặp lại liệu trình sau 1 tháng.
Lưu ý: M. suis nhạy cảm với arsenic hữu cơ, tuy nhiên hoá chất này độc hại với người tiêu dùng và heo, vì vậy hạn chế sử dụng, nhất là không được sử dụng trên nhóm heo sản xuất thịt.
7. Kiểm soát
- Kiểm tra tình trạng nhiễm M. suis ở heo hậu bị trước khi nhập đàn để có giải pháp phù hợp.
- Xét nghiệm đánh giá tình trạng nhiễm ở heo nái và heo cai sữa. Trong trường hợp mức độ nhiễm bệnh nghiêm trọng, cần áp dụng quy trình phòng trị sau: Tiêm kháng sinh tetracyclines toàn bộ nhóm heo nhiễm, trong vòng 7 – 10 ngày. Lặp lại liệu trình điều trị 2 lần, mỗi lần cách nhau 1 tháng, với liều điều trị qua đường miệng, trong vòng 7 – 10 ngày. Sau lần điều trị thứ hai, lấy mẫu máu kháng đông để đánh giá tình trạng nhiễm qua đó có biện pháp xử lý thích hợp.

BỆNH KÝ SINH TRÙNG ĐƯỜNG MÁU TRÊN HƯƠU SAO
1. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh ký sinh trùng đường máu trên hươu sao chủ yếu do ký sinh trùng Trypanosoma evansi gây ra.
Ký sinh trùng này được truyền qua đường máu thông qua các loại côn trùng hút máu như ruồi trâu (Tabanidae), muỗi, và ve.
2. Cơ chế lây truyền
Trypanosoma evansi lây nhiễm qua vết cắn của côn trùng hút máu đã nhiễm bệnh. Khi côn trùng này hút máu của một con vật khỏe mạnh, ký sinh trùng sẽ xâm nhập vào máu và gây nhiễm trùng.
Ngoài ra, bệnh cũng có thể lây truyền qua việc sử dụng chung kim tiêm hoặc các dụng cụ thú y chưa được khử trùng đúng cách.
3. Triệu Chứng Lâm Sàng
Bệnh ký sinh trùng đường máu ở hươu sao có thể biểu hiện qua nhiều triệu chứng khác nhau, tùy thuộc vào giai đoạn nhiễm bệnh và mức độ nghiêm trọng của bệnh:
a. Triệu chứng cấp tính:
Sốt cao: Hươu sao thường xuất hiện sốt cao đột ngột và có thể kéo dài, nhiệt độ cơ thể thường dao động từ 39°C đến 42°
Mệt mỏi và lờ đờ: Hươu có dấu hiệu mệt mỏi rõ rệt, giảm hoạt động, thường đứng hoặc nằm lỳ một chỗ.
Chán ăn: Hươu sao có thể mất cảm giác thèm ăn, dẫn đến giảm lượng thức ăn tiêu thụ.
Thiếu máu: Niêm mạc mắt, miệng và lưỡi có màu nhợt nhạt hơn bình thường do thiếu máu.
Giảm trọng lượng: Giảm cân nhanh chóng do mất nước và dinh dưỡng, cơ thể hươu trở nên gầy gò.
Sưng hạch bạch huyết: Các hạch bạch huyết ở vùng cổ, nách, và bẹn có thể bị sưng.
Phù nề: Đặc biệt là vùng bụng, chân, và cổ có thể bị phù nề do rối loạn tuần hoàn.
Chảy máu: Xuất hiện các đốm xuất huyết nhỏ dưới da, niêm mạc hoặc trên các cơ quan nội tạng.
b. Triệu chứng mãn tính:
Giảm cân kéo dài: Hươu tiếp tục giảm cân mặc dù đã giảm triệu chứng sốt.
Suy nhược toàn thân: Hươu yếu ớt, lông xù, không còn bóng mượt, và có thể xuất hiện các dấu hiệu của bệnh suy kiệt.
Rối loạn thần kinh: Một số hươu có thể xuất hiện các triệu chứng thần kinh như run rẩy, liệt hoặc đi không vững.
Vàng da và niêm mạc: Xuất hiện triệu chứng vàng da do gan bị tổn thương và phá hủy hồng cầu.
4. Bệnh Tích
Bệnh tích của bệnh ký sinh trùng đường máu trên hươu sao thường được quan sát rõ khi thực hiện khám nghiệm động vật mắc bệnh hoặc đã chết:
a. Bệnh tích trên hệ tuần hoàn:
Thiếu máu: Mô và cơ quan bên trong có màu nhợt nhạt, đặc biệt là gan, lá lách, và thận.
Xuất huyết: Có thể thấy các đốm xuất huyết nhỏ (điểm xuất huyết) trên màng nhầy của niêm mạc miệng, mắt, và các cơ quan nội tạng.
b. Bệnh tích trên các cơ quan nội tạng:
Gan: Gan thường sưng to, có màu vàng hoặc xám, và xuất hiện các đốm xuất huyết nhỏ.
Lá lách: Lá lách sưng to hơn bình thường, màu đỏ sẫm do ứ máu.
Thận: Thận có thể bị phù nề và xuất huyết, màu sắc thay đổi do thiếu máu và các tổn thương viêm nhiễm.
c. Bệnh tích trên hệ thần kinh:
Viêm não: Một số trường hợp nhiễm trùng nặng có thể gây viêm não, làm tổn thương mô não và dẫn đến rối loạn thần kinh.
d. Bệnh tích trên các cơ quan khác:
Phổi: Phổi có thể bị viêm và xuất hiện dịch trong phế quản do thiếu máu và suy giảm miễn dịch.
Tim: Mô cơ tim có thể bị viêm và suy yếu, dẫn đến suy tim trong những trường hợp nặng.
5. Chẩn đoán
Phương pháp trực tiếp: Quan sát ký sinh trùng trong mẫu máu dưới kính hiển vi. Đây là phương pháp phổ biến và đơn giản nhất để xác định bệnh.
Phương pháp gián tiếp: Sử dụng các xét nghiệm huyết thanh học như ELISA hoặc PCR để phát hiện kháng thể hoặc DNA của ký sinh trùng trong máu.
6. Điều trị
Điều trị bệnh ký sinh trùng đường máu trên hươu sao thường sử dụng các loại thuốc chống trypanosome như- SULTRIM 1000, Liều 1g/30-50kg TT/ngày. Dùng liên tục 3-5 ngày.
Dùng thuốc trợ sức, trợ lực như: SUPER C 1000, AMILYTE…
Để đạt hiệu quả tối ưu, việc điều trị cần được thực hiện kịp thời và kết hợp với các biện pháp chăm sóc hỗ trợ, như cung cấp dinh dưỡng tốt, duy trì sức khỏe tổng quát, và quản lý căng thẳng cho hươu.
7. Phòng ngừa
Kiểm soát và tiêu diệt côn trùng hút máu là biện pháp phòng ngừa quan trọng nhất. Sử dụng thuốc diệt côn trùng, lưới chống muỗi, và duy trì vệ sinh chuồng trại sạch sẽ.
Thường xuyên phun sát trùng chuồng trại bằng KLOTAB 1 viên cho 10 lít nước, DESINFET 0, DESINFET GULTAR ACTIVE
Thực hiện quản lý an toàn sinh học, bao gồm việc sử dụng kim tiêm và dụng cụ thú y riêng biệt cho từng con vật, và thực hiện cách ly những con vật mới nhập vào đàn trước khi nhập chung với các con vật khỏe mạnh.
Tiêm phòng: Mặc dù hiện chưa có vắc-xin đặc hiệu cho Trypanosoma evansi, nhưng việc sử dụng các biện pháp phòng ngừa khác có thể giảm nguy cơ bùng phát dịch.
8. Ảnh hưởng của bệnh
Bệnh ký sinh trùng đường máu gây ra tổn thất lớn cho người chăn nuôi hươu sao do giảm năng suất, chi phí điều trị cao, và tỷ lệ tử vong cao nếu không được điều trị kịp thời.
Ngoài ra, bệnh còn ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm từ hươu như sừng hươu và thịt hươu, làm giảm giá trị kinh tế của người chăn nuôi.

ẢNH HƯỞNG CỦA DINH DƯỠNG TỚI VIỆC CẢI THIỆN KHẢ NĂNG MỌC LÔNG Ở GÀ THỊT
Thành phần dinh dưỡng, lượng ăn vào hay các chất kháng dinh dưỡng và các chất phụ gia khác có trong khẩu phần ăn đều có ảnh hưởng đến sự phát triển của lông vũ gà.Do lông vũ có hàm lượng protein và axit amin cao nên 2 loại chất này rất đáng được các nhà chăn nuôi quan tâm hơn.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, hàm lượng protein, cụ thể hơn là protein thô trong khẩu phần ăn có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái tạo lông.Khi cho gà ăn khẩu phần nhiều protein thô hơn thì cho thấy gà có nhiều lông hơ
Mặc khác việc lông kém là một vấn đề đáng lo ngại. Khi gà con nhỏ hơn 10 – 15 ngày tuổi được cho ăn khẩu phần ăn dưới 16% protein thì thường có bộ lông kém phát triể
Ở gà giống, bộ lông của gà thịt hay màu chân của gà mái luôn là khía cạnh được quan tâm nhiều nhất trong quá trình chăn nuôi gà suốt nhiều thập kỷ. Trong thời gian trở lại đây, sự phát triển của lông gà cũng đã được quan tâm nhiều hơn như việc lông rụng xuất hiện ở 45 tuần tuổi trước 8-10 tuần.
Nếu lông có vẻ khô, giòn và dễ gãy thì các vấn đề này có thể liên quan đến chất lượng lông phát triển kém, lông bị tổn thương hoặc do cả hai yếu tố hoặc có liên quan tới việc giao phối muộn khi đẻ (do da trần của gà mái bị gà trống cào) và khả năng chịu lạnh kém hơn do lớp lông che phủ giảm. Nếu lớp lông che phủ kém trong những tháng mùa đông kết hợp với việc không tăng khẩu phần ăn đôi khi sẽ dẫn tới lông kém phát triển.
1. Protein có lợi cho sự phát triển lông ở gà hậu bị.
Do sự thay lông và mọc lông gần như liên tục trong giai đoạn đẻ trứng ở gà hậu bị nên chế độ dinh dưỡng phải tối ưu để lông có thể phát triển bình thường.
a. Kiểm soát tốt khối lượng cơ thể là chìa khóa của vấn đề này.
Nếu khối lượng gà hậu bị vượt quá đường cong tăng trưởng trong giai đoạn phát triển và phải sử dụng các biện pháp giảm lượng ăn để giảm sự tăng trưởng thì khi đó chất lượng lông có thể bị ảnh hưởng.
Một lần nữa, việc chú ý theo dõi đường cong tăng trưởng ở gà hậu bị và khi đưa gà vào sản xuất có thể giúp giảm thiểu các vấn đề về lông trong giai đoạn đẻ. Một nghiên cứu được thực hiện ở Đại Học Auburn, khi sử dụng mức protein khác nhau ở gà hậu bị cho đến 6 tuần tuổi, cho thấy sự khác biệt đáng chú ý về khả năng mọc lông ở 10 tuần tuổi.
b. Thức ăn khởi động của gà hậu bị có khoảng 19 đến 20% protein thô
- Thường được sử dụng trong bốn tuần tuổi đầu nhưng nếu kéo dài thời gian cho ăn thức ăn khởi động tới 6 tuần tuổi có thể giúp tăng được lượng protein ăn vào sớm và tăng cường sự sớm phát triển của lông. Mặc dù những con gà hậu bị có ba lần thay lông trước khi đạt sản lượng trứng cao nhất, nhưng khi dinh dưỡng giai đoạn đầu tốt giúp tăng cường chất lượng lông vẫn có thể được đưa vào chuồng đẻ.
- Một số loại protein thô hiện nay đang được nhiều nhà máy sản xuất thức ăn sử dụng nhưđạm đơn bào dạng lỏng FML, đạm đơn bào dạng bột Ajtein, đạm đơn bào dạng viên Vedafeed với tỷ lệ đạm từ 25% – 60%. Loại đạm thô này có giá thành hợp lý, chất lượng cao được đảm bảo chỉ tiêu từ nhà sản xuất.
2. Các phương pháp tiệm cận từ dinh dưỡng
Lông có cấu tạo chủ yếu từ protein, và các công ty chăn nuôi gia cầm đã thực hiện một số thay đổi để tăng lượng acid amin mà gà mái cần để tối đa hóa sự phát triển lông hoặc tăng các khoáng vi lượng hoặc vitamin có liên quan tới việc tạo ra protein ở lông.
a. Acid amin
Bất kỳ cuộc thảo luận nào đến sự liên quan của dinh dưỡng đối với việc giúp lông vũ phát triển đều tập trung vào 2 loại acid amin chính đó làCytine và Methionine có trong khẩu phần ă Ngoài ra, các axit amin chủ yếu tham gia vào quá trình tổng hợp keratin lông vũ là các amin chứa lưu huỳnh và 2 loại trên.
Tỷ lệ của các axit amin chứa lưu huỳnh có trong da thường lớn hơn nhiều so với trong mô cơ. Do đó, sự thiếu hụt nhẹ các axit amin này trong chế độ ăn của gà sẽ khiến chúng mọc lông bất thường.
Cystine là axit amin phổ biến nhất trong lông vũ, chiếm khoảng 9% tổng số axit amin, mặc dù valine, arginine và leucine cũng có nồng độ cao. Đây là một tính toán thú vị để đo tỷ lệ axit amin được gà thịt tiêu thụ mỗi tuần (Bảng 1). Nếu những tính toán này là chính xác thì điều đó chỉ ra rằng lượng valine và arginine hấp thụ cũng rất quan trọng cho sự phát triển của lông.
Bảng 1 –Tính tỷ lệ axit amin tiêu hóa tích tụ trong lông của gà thịt lai Ross 708.
Tuổi
Lysine
Meth
Cys
Threo
Valine
Arg
0-10 ngày
8%
8%
84%
12%
28%
21%
11-24 ngày
6%
6%
62%
9%
21%
16%
24-39 ngày
5%
5%
52%
8%
18%
14%
40-56 ngày
3%
4%
36%
5%
12%
9%
Mặc dù Methionine và Cystine là những thành phần quan trọng của lông nhưng chỉ có thể bổ sung Methionine thông qua thức ăn của gia cầm. Nhiều công ty chăn nuôi gia cầm thịt đã tăng lượng Methionine trong thức ăn gà giống của họ bằng cách tăng tổng tỷ lệ acid amin chứa lưu huỳnh (TSAA) – so với lysine trong giai đoạn hậu bị và đẻ.
Trong nhiều trường hợp, tỷ lệ TSAA tiêu hóa trên lysine tiêu hóa là xấp xỉ 100 đến 105% để kích thích sự phát triển lông.Trong khi Methionine và Cystine nhận được nhiều sự quan tâm tới quá trình tạo lông thì các acid amin khác không nên bị bỏ qua vì chúng có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo lô
Các acid amin chuỗi nhánh (valine, isoleucine và leucine)và arginine có hàm lượng tương đối cao trong protein ở lông. Một số chuyên gia dinh dưỡng đặt mức tối thiểu cho các dinh dưỡng này, trong khi một số khác đặt mức protein tối thiểu để bảo đảm hơn.
Tăng hàm lượng vitamin B (pyridoxine, biotin)giúp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lông và tăng tính khả dụng của vitamin. Các chuyên gia dinh dưỡng của các công ty gia cầm khác đã tăng lượng acid folic bổ sung vào khẩu phần thức ăn vì acid folic tham gia vào quá trình sinh hóa giúp chuyển hóa methionine thành cysteine.
Cysteine là thành phần đặc biệt quan trọng trong lông, nhưng rất khó để tăng hàm lượng cysteine trong thức ăn thông qua các nguyên liệu có sẵn.
Vì lý do này, tất cả các cách thức giúp tăng việc sử dụng methionine trong thức ăn để cải thiện lông được tối ưu hóa.
Ngoài ra, thiếu chất xơ trong khẩu phần có thể gây ra hiện tượng mổ và ăn lông của nhau.
b. Vitamin, khoáng chất và khoáng vi lượng
Sự thiếu hụt hầu hết các loại vitamin và khoáng chất thiết yếu đều gây ra tình trạng lông mọc bất thường. Ví dụ như thiếu hụt riboflavin có lẽ gây ra những dấu hiệu đặc trưng nhất ở phôi và gà con như biểu hiện cụp xuống với một đầu lông phồng lên ở đầu mỗi lông tơ (hình minh họa bên dưới).
Trong một vài năm gần đây,tỷ lệ gà con bị mắc bệnh này ngày càng tăng, dễ nhìn thấy nhất là ở các trại gà giống và người ta thường gọi đây là hội chứng suy nhược. Và nguyên do dễ thấy nhất là tình trạng không đáp ứng đủ riboflavin vào khẩu phần ăn.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy nguyên nhân khác có thể là do gà giống bị thiếu kẽm docho ăn quá nhiều canxi và sắt. Mặt khác, có thể là do một loại virus astrovirus từ người nuô
Nhiều năm trước, các nhà nghiên cứu ở Úc cho rằng việc lông cụp xuống có liên quan đến cái gọi là“ginger hairs” trên vùng cổ của gà con mới nở là do sự thiếu hụt chuyển hóa của molypden.
Còn về khoáng vi lượng, nếu không bổ sung đủ thì cũng sẽ gây cản trở sự phát triển của lông. Ví dụ như thiếukẽm, thiếc, crom, niken hay vanadi…
Trong đó,kẽm được đánh giá là quan trọng nhất trong sự phát triển lông tốt hay không. Nếu thiếu kẽm, lông thường bị sờn, đặc biệt là có ảnh hưởng xấu đến lông cánh sơ cấp ở giai đoạn đang phát triển. Hoặc trục lông cách nang lông khoảng 3cm sẽ có các vết phồng rộp đặc trưng và ở điểm này, lông thường dễ gãy.
Thiếu kẽm còn gây ra hiện trạnglông “hình thìa”, không có cánh phát triển gần nang lô Lông hình chiếc thìa cũng được mô tả ở những loài chim bị nhiễm vi rút “reticulo-endothelial virus”.
Lông từ những con gà hậu bị và những con gà giống bị stress sẽ xuất hiện những đường stress (những đường mờ theo chiều ngang của lông) do thiếu kẽm tạm thời (vì nhu cầu kẽm của gà thường tăng trong khoảng thời gian stress). Các đường stress này mờ hơn phần còn lại của lông và lông sẽ dễ đứt gãy tại vị trí đó.
Một khoáng chất khác đang được quan tâm hiện nay làđộc tính của boron, chất này đôi khi được sử dụng làm chất độn chuồng để kiểm soát bọ cánh cứ Không rõ liệu axit boric có gây ra vấn đề nghiêm trọng cho lông do tiếp xúc với da hay chúng bị ảnh hưởng do ăn phải chất độn chuồng bị ô nhiễm?
Ngoài ra,I-ốt cũng là một chất dinh dưỡng quan trọng cho quá trình tạo lông vì có mối liên hệ mật thiết với quá trình trao đổi chất của tuyến giá Trước đây, chúng ta có thể đã đánh giá thấp nhu cầu thay lông bằng I-ốt của gia cầm, vì đối với hầu hết các loại gia cầm, yêu cầu về chế độ ăn uống luôn được công bố trong sách hướng dẫn chăn nuôi ở mức 1ppm.
Ngày nay chúng tôi nhận thấy rằng mức 2-3ppm có lẽ phù hợp hơn để lông phát triển tối ưu. Theo đó, bột ngô và đậu nành đều chứa khoảng 0,2ppm iốt, còn lúa mì thấp hơn nhiều ở mức 0,1ppm, cao lương và hạt kê đặc biệt thấp ở mức 0,03ppm.
Có thể thấy vitamin và khoáng chất cũng có thể giúp cải thiện sự phát triển lông. Vì vậy mà nhiều công ty gia cầm đã tăng hàm lượng khoáng vi lượng vào trong công thức thức ăn chăn nuôi.
Một số đơn vị sẽ chọnkẽm, đồng và selen để giúp gà dễ tiêu hóa hơn từ các nguồn hữu cơ (vì các khoáng hữu cơ đã được chứng minh là có khả năng tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng).
Nhiều nghiên cứu về nguồn kẽm hữu cơ đã cho thấy khi bổ sung tăng cường kẽm, việc mọc lông trở lại được cải thiện ở những con gia cầm đang phát triển. Ngoài ra, sự cải thiện về khối lượng lông của gà thịt cũng được cải thiện khi bổ sung selen hữu cơ.
c. Độc tố nấm mốc
Nếu xuất hiện độc tố nấm mốc trong thành phần nguyên liệu cho gia cầm ăn thì sẽ gây ra nhiều bất thường cho sự phát triển của lông. Nếu chúng được cho ăn với nguyên liệu có hàm lượng lớn độc tố T-2 thì chúng chỉphát triển được một lớp lông phủ thưa thớt và có xu hướng mọc dầy/nhô lên ở những góc khuất/góc lạ thường trên da của con gà.
Có một khả năng cho rằng độc tố này đã làm thay đổi quá trình chuyển hóa của một số chất dinh dưỡng khác, do đó có thể nó là tác động gián tiếp.
Đối với việc nhiễm độc T-2, hầu hết các lông trên cơ thể đều bị ảnh hưởng, không giống như tình trạng cục bộ được thấy với sự mất cân bằng vitamin hoặc axit amin. Tuy nhiên, các vấn đề về lông xảy ra với khoảng 5-15ppm độc tố T-2 trong khẩu phần ăn cần mức độ cao bất thường trong các loại hạt như ngô/bắp.Các vấn đề của T-2 có liên quan đến bệnh helicopter (lông bất thường) ở thực tế. Các trục lông có xu hướng có một đường cong nổi bật cách xa cơ thể và trong một số trường hợp có một vạch tối rõ ràng trên lông khoảng 1/4 chiều dài tính từ đầu lông.
Ngoài ra, hiện tượng chậm mọc lông ở gà thịt còn bị gây ra bởi Ochratoxin.
Bên cạnh đó, sự hiện diện của nhiều loại độc tố nấm mốc, ở mức độ không nhiều lắm, cũng có thể có tác động bất lợi đến quá trình mọc lông ngay cả khi tất cả người nuôi đáp ứng đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng khác.
Một nghiên cứu khác cũng cho rằng,một số độc tố scirpentriol do nấm mốc Fusarium tiết ra đã làm cho lông bị sờn với độ phủ của lông kém ở các gà đang lớn. Những chiếc lông bị ảnh hưởng có thể không chịu được sự khắc nghiệt trong suốt chu kỳ sinh sả
Nhìn chung, các chuyên gia dinh dưỡng từ các công ty gia cầm đã thay đổi một số chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn để giúp khắc phục các vấn đề trên lông ở gia cầm.
Dinh dưỡng gà hậu bị và gà giống có thể góp phần cải thiện các vấn đề về lông ở lứa đẻ từ giữa tới cuối.
Các chuyên gia ở nhiều công ty đã thực hiện một số thay đổi trong công thức thức ăn để giúp chúng giữ bộ lông được tối ưu và cũng như tạo ra các chương trình cho ăn trong thực tế để có thể bổ sung cho những thay đổi trên bằng cách theo dõi và kiểm tra cẩn thận bộ lông của chúng theo từng giai đoạn và độ tuổi.
d. Những ý quan trọng khác
Một vấn đề khác thường được nêu ra khi xảy ra các bất thường về lông là nguồn methionine được sử dụng, dưới dạng DL Methionine hoặc chất tương tự hydroxy của nó. Việc xem xét tài liệu cho thấy không có sự khác biệt giữa các nguồn này về mặt trao đổi chất nói chung và đặc biệt là đối với lông.
Mặc dù bộ lông phát triển bất thường có thể được sử dụng để hỗ trợ chẩn đoán thiếu hụt axit amin và các chất dinh dưỡng khác, nhưng kết quả thường không cụ thể, chẳng hạn như sự đối kháng, thiếu hụt và/hoặc mất cân bằng của axit amin (và nhiều chất dinh dưỡng khác) thường dẫn đến những bất thường tổng thể tương tự về bộ lông.
Ví dụ, sự mất cân bằng của leucine và valine, hoặc thậm chí glycine, phenylalanine và tyrosine đều gây ra các loại bất thường về lông tương tự ở gà con.
Trong hầu hết các tình huống, trong chế độ ăn thiếu hụt hoặc mất cân bằng như gà con sẽ xuất hiện tình trạng “lông xù” và khi kiểm tra kỹ hơn, lông trên cơ thể chúng thường nhô ra khỏi cơ thể trong khi lông cánh sơ cấp luôn không có vỏ bọc sát cơ thể.
Công trình nghiên cứu kinh điển của Mario Penz cách đây vài năm đã cho thấy tác động của sự mất cân bằng các axit amin chuỗi nhánh trong quá trình phát triển của lông cánh gà thịt (hình minh họa bên dưới). Và việc bổ sung quá nhiều leucine sẽ gây ra hiện tượng mọc lông bất thường, điều này đã được khắc phục bằng cách bổ sung một lượng dư leucine và isoleucine tương ứng.
Sắc tố lông cũng bị ảnh hưởng bởi dinh dưỡng. Lysine đã được xác định là axit amin chính liên quan đến sự hình thành sắc tố mặc dù sắc tố giảm cũng được thấy ở gà con được cho ăn khẩu phần thiếu phenylalanine và tyrosine, là tiền chất của melanin. Thiếu lysine cũng có thể gây mất sắc tố do ức chế hoạt động của enzyme tyrosinase, do đó ức chế sự hình thành

7 YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG ĂN VÀO VÀ KHẢ NĂNG TIÊU HOÁ CỦA TRÂU BÒ
Chăn nuôi trâu bò cho thịt và cho sữa đang được phát triển mạnh ở nước ta để cung cấp sản phẩm thịt, sữa và phụ phẩm chế biến cho nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi này như giống, thức ăn, dịch bệnh, môi trường chăn nuôi, các yếu tố quản trị chăm sóc… và thị trường. Vì vậy, nhà chăn nuôi cần phải đầu tư thích đáng để đạt được hiệu quả chăn nuôi tốt nhất.
1. Cho ăn quá nhiều
Bò sẽ bị ảnh hưởng xấu do cho ăn quá nhiều và thường xuất hiện các triệu chứng đầy hơi, khó tiêu, và trướng bụng cấp tính hoặc tác động mạnh vào dạ dày. Ngoài ra, các loài vi khuẩn như Clostridium welchii thường được tìm thấy trong chất chứa ở ruột của vật trong tình trạng cho ăn quá mức với sự sản sinh độc tố quá mức trong ruột, sự hấp thụ nó sẽ gây ra bệnh. Ở những bò sữa bị ăn quá mức khi được mong muốn sản xuất phá kỷ lục, những triệu chứng rối loạn tiêu hóa như vậy xuất hiện đột ngột làm sụt giảm sản lượng sữa. Thể keton trong máu tăng quá mức cũng có thể xảy ra ở vật nuôi được cho ăn nhiều vì chúng không thể hoàn thành quá trình oxy hóa chất béo trong cơ thể. Các sản phẩm oxy hóa không hoàn toàn (vật thể keton) tích tụ trong máu và ảnh hưởng xấu đến tình trạng cơ thể và chất lượng sữa.
2. Cho ăn thiếu
Sự thiếu hụt các vitamin và khoáng chất liên tục kéo dài thường dẫn đến sự phát triển bệnh được gọi là bệnh dinh dưỡng, có thể gây ra thiệt hại không thể khắc phục và cần phải tránh. Sự thiếu hụt các yếu tố khác, chẳng hạn như thiếu năng lượng hoặc protein vừa phải, có xu hướng kìm hãm sự phát triển nhưng không gây hại đặc biệt nếu không tiếp tục quá lâu, đặc biệt là nếu vật nuôi không mang thai và dự kiến sẽ không sản xuất hiệu quả. Tuy nhiên, ở những vật nhân giống, việc cho ăn thiếu làm giảm đáng kể hoạt động sinh sản bình thường của chúng. Ở vật cái bị thiếu ăn có thể không động dục bình thường, và nếu có thai, vật còn tơ có thể không mang được thai, hoặc nếu được sinh ra, có thể sẽ bị yếu và phát triển kém.
3. Chế biến thức ăn
Việc nghiền thường cải thiện lượng ăn vào và cũng có thể thêm các kim loại vào thức ăn. Ví dụ, người ta đã phát hiện ra rằng việc nghiền bột cam quýt bằng máy nghiền Wiley đã làm tăng đáng kể sắt, kẽm, đồng, natri và mangan dưới dạng kim loại nghiền mịn có thể được sử dụng tốt hơn cùng với các nguyên tố tương tự vốn có trong thức ăn. Trong một số trường hợp, việc nghiền có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng tiêu hóa nhưng ở một mức độ khác nhau tùy thuộc vào mức độ mịn. Tỷ lệ tiêu hóa chất khô của cỏ khô được nghiền thô, trung bình và rất mịn đã bị giảm lần lượt 3,2%, 7,6% và 15,1% so với cỏ khô được nuôi ăn ở dạng dài. Cỏ khô được nghiền thô không chỉ dễ tiêu hóa hơn mà còn ngon miệng hơn. Ngoài ra, nó cho phép thời gian nhai lại lâu hơn, lượng nước bọt được sinh ra lớn hơn và tỷ lệ acetate với propionate cao hơn trong dạ cỏ, nó đặc biệt quan trọng đối với bò sữa vì acetate là tiền chất chính của quá trình tổng hợp chất béo của sữa. Xử lý nhiệt của các thức ăn khác được nhận thấy là có lợi, đặc biệt trong các trường hợp các thành phần như hạt bông vải hoặc đậu nành được đưa vào tổ hợp trong khẩu phần. Nhiệt nóng các thành phần như vậy ở 140-150° C trong 2-3 phút dẫn đến sự phá hủy các chất độc và chất ức chế tự nhiên có trong thức ăn (gossypol tự do trong hạt bông vải và chất ức chế trypsin trong đậu nành) và do đó cải thiện giá trị dinh dưỡng của chú
4. Số lần cho ăn
Khi cho vật nuôi ăn 5-6 lần mỗi ngày, sẽ có độ pH ổn định trong dạ cỏ ở các mức trong khoảng 5,5 đến 5,8, nhưng khi cho ăn chỉ 1-2 lần mỗi ngày, trong trường hợp này, giá trị pH sẽ thay đổi từ khoảng 5.1 đến 7.1 trong cùng ngày. Với giá trị pH ổn định trong dạ cỏ, tỷ lệ tiêu hóa của chất xơ khẩu phần sẽ tăng lên do hoạt động của vi khuẩn trong dạ cỏ tăng lên dẫn đến mức năng lượng tăng cần thiết cho hoạt động đó (nồng độ ATP ở dạ cỏ cao gấp 2,5 lần ở số lần cho ăn cao so với số lần cho ăn thấp). Ngoài ra, việc số lần cho ăn cao còn làm giảm lượng ammonia tạo ra trong dạ cỏ sau quá trình tiêu hóa protein, cho thấy tỷ lệ hình thành protein có thể phân giải thấp và tỷ lệ protein không phân giải cao được sử dụng cho mục đích sản xuất. Tỷ lệ tăng của protein không phân giải có liên quan đến protein phân giải trong dạ cỏ có lẽ được cho là do tốc độ tăng của chất tiêu hóa chuyển qua dạ cỏ bằng việc số lần cho ăn cao, do đó không đủ thời gian cho sự phân rã.
5. Yếu tố môi trường
Một số yếu tố môi trường có thể ảnh hưởng đến lượng ăn vào ở vật nuôi, chẳng hạn như: stress nhiệt, mưa, tiếng ồn và độ cao.
6.Yếu tố vật nuôi
Một số yếu tố của vật nuôi có thể ảnh hưởng đến ăn vào ở động vật, chẳng hạn như tuổi, mang thai và mức độ vận động.
7. Các bệnh của cơ thể
Một nghiên cứu đã được thực hiện để định lượng giảm lượng ăn vào và tổn thất sản xuất sữa có liên quan đến các rối loạn sức khỏe ở bò sữa. Lượng ăn vào bị giảm 6,7-14,7 kg chất khô (DM) trong các tình trạng bệnh như tiêu chảy, viêm vú, thể keton trong máu cao và sốt sữa với mức giảm 1,94 kg sản lượng sữa cho mỗi kg DM ăn vào giảm. Ví dụ như sự xâm nhập của ký sinh trùng bên ngoài cũng có thể ảnh hưởng xấu đến tình trạng protein của động vật. Giả sử một vật nuôi bị nhiễm 200 con ve, sau đó hàng ngày, con vật có thể mất 200ml máu hoặc 40 g protein (giả sử máu có 20% protein). Sự gia tăng nhu cầu về 40 g protein có thể được đáp ứng bằng cách cho ăn 150 g bột hạt bông vải hoặc từ protein vi sinh vật được sinh ra trong dạ cỏ từ 250 g carbohydrate tiêu hóa. Do đó, các nhu cầu đối với acid amin tăng là do bệnh ký sinh trùng và gia súc sẽ bị mất cân bằng về các chất dinh dưỡng của chúng trong và đôi khi sau khi điều trị ký sinh trùng. Vật nuôi bị cạn kiệt protein có khả năng tạo ra nhiều nhiệt hơn và việc sử dụng năng lượng trao đổi (ME) sẽ bị giảm.
Các ảnh hưởng của nội ký sinh trên trâu bò sẽ thay đổi theo mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng cũng như tuổi và mức stress của vật nuôi. Các nôi ký sinh trùng ảnh hưởng đến lượng ăn vào của vật nuôi theo mức thay đổi khác nhau tùy thuộc vào tính nghiêm trọng của sự xâm nhập. Một mối quan hệ như vậy có thể được quy cho ảnh hưởng của ký sinh trùng đến sự vận động của dạ cỏ, pH dạ cỏ và hệ nội tiết hormone điều chỉnh sự thèm ăn và lượng ăn vào. Nội ký sinh trùng cũng ảnh hưởng đến tiêu hóa và sử dụng protein khẩu phần, do lượng ăn vào giảm và nhu cầu của vật nuôi sử dụng protein thức ăn như một nguồn năng lượng bù đắp.
8. Các chiến lược cải thiện
Những gì có thể được thực hiện để ngăn chặn việc ăn vào và sử dụng thức ăn bị giảm do tất cả các yếu tố này?
Cần tránh cho vật nuôi ăn quá nhiều vượt quá nhu cầu thực tế của nó. Ngoài sự tiết kiệm thức ăn, cho ăn quá nhiều còn ảnh hưởng xấu đến môi trường dạ cỏ và gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe và sản xuất. Việc cho ăn thiếu cũng nên tránh vì nó gây ra các bệnh về dinh dưỡng dẫn đến thiệt hại không thể khắc phục.
Thức ăn nên được xử lý đúng cách và được cung cấp nhiều lần mỗi ngày để duy trì chức năng dạ cỏ bình thường và cải thiện sự sử dụng.
Vật nuôi trong các hoạt động nuôi dưỡng bị nhốt nên được vận động một khoảng thời gian mỗi ngày để cải thiện khả năng tiêu hóa và sử dụng các chất dinh dưỡng của thức ăn. Cũng cần xem xét rằng phản ứng của vật đối với thức ăn có thể thay đổi bởi vì những thay đổi sinh lý liên quan đến tuổi và việc phân chia khẩu phần cần được điều chỉnh cho phù hợp.
Stress nhiệt ảnh hưởng xấu đến việc sử dụng thức ăn và sản xuất sữa và do đó, nên giảm bớt bằng các biện pháp vận dụng khéo vào khẩu phần (bổ sung chất đệm có thêm chất béo, protein và khoáng chất), và cũng bằng cách điều chỉnh môi trường tiểu khí hậu (bóng mát, vòi phun nước, v.v.).
Việc vật nuôi tiếp xúc với stress tiếng ồn cũng ảnh hưởng đến nhai lại và quá trình trao đổi chất. Trong trường hợp không thể tránh được stress tiếng ồn, việc bổ sung thức ăn có thêm chất chống oxy hóa có thể giúp giảm bớt các phản ứng trao đổi chất có hại liên quan đến tiếng ồn.
Vật nuôi phải luôn được duy trì trong tình trạng sức khỏe tốt. Chúng cũng cần được xử lý phòng ngừa nội ký sinh trùng bằng phương pháp tẩy giun và quản lý đồng cỏ thích hợp để giảm thiểu ảnh hưởng của các nội ký sinh trong việc sử dụng thức ăn và năng suất của vật nuôi. Tương tự, các ngoại ký sinh trùng cần được kiểm soát chặt chẽ thông qua việc sử dụng thuốc trừ côn trùng. Tuy nhiên, điều này cần được thực hiện dưới sự giám sát của bác sĩ thú y, người sẽ hướng dẫn việc xử lý tùy thuộc vào mức độ xâm nhiễm, độ tuổi và sức khỏe của vật nuôi.

CẦN CHÚ Ý NHỮNG GÌ KHI TÁI ĐÀN GIA SÚC VÀO CUỐI NĂM
Trong thời gian qua, dịch bệnh trên đàn vật nuôi vẫn diễn biến phức tạp, các bệnh truyền nhiễm có nguy cơ bùng phát trở lại nhất là ở những địa phương còn chăn nuôi nhỏ lẻ, tỷ lệ tiêm phòng thấp, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Hiện nay, người chăn nuôi đang tái đàn phục vụ nhu cầu cầu thực phẩm cuối năm. Trong điều kiện dịch bệnh phức tạp như hiện nay người chăn nuôi thực hiện tốt một số nội dung sau:
1. Đối với con giống
Khi mua con giống, cần đến những cơ sở con giống bảo đảm an toàn dịch bệnh, nguồn gốc rõ ràng, được tiêm phòng đầy đủ các loại vaccine. Tuyệt đối không mua giống ở nơi vừa xảy ra dị Trong quá trình vận chuyển, cần bố trí phương tiện vận chuyển chuyên dụng. Trước và sau khi vận chuyển đàn giống, phương tiện cần được khử trùng tuyệt đối. Con giống nhập về thực hiện nuôi cách ly ít nhất 2 tuần để theo dõi tình trạng sức khỏe. Ghi chép đầy đủ các thông tin về đàn giống vào sổ chăn nuôi, như ngày tháng nhập, địa chỉ nơi cấp giống, lịch tiêm phòng…
2. Đối với thức ăn
Nguồn thức ăn nguyên liệu phục vụ cho chăn nuôi được kiểm soát tốt bảo đảm có chất lượng, không nhiễm mầm bệ Không cho ăn thức ăn thừa của người khi chưa được nấu chín. Khi nhập thức ăn và nguyên liệu cần bảo quản tại kho chứa riêng, không để vào trong các dãy chuồng nuôi.
3. Đối với chuồng nuôi
Chuồng nuôi cần có hệ thống hàng rào, có ranh giới tách biệt giữa khu chăn nuôi và khu sinh hoạt của con người, không nuôi chung nhiều loại cùng một lú Thường xuyên kiểm soát nghiêm ngặt người và phương tiện ra vào chuồng.
4. Vệ sinh làm sạch và sát trùng
Hằng ngày, vệ sinh trong và ngoài chuồng nuôi; thu gom, xử lý toàn bộ rác, chất thải để xử lý định kỳ 1 tuần/1 lần. Sử dụng các sản phẩm sát trùng như KLORTAB viên cho 10 lít nước hoặc DESINFECT O, DESINFECCT GLUTAR ACTIVE. Khi có khách đến tham quan hoặc lái buôn ra vào trại phải thực hiện khử trùng người, phương tiện và chuồng nuôi. Ghi chép đầy đủ các thông tin liên quan đến việc khử trùng vào sổ để theo dõi, kiểm tra.
5. Đối với chuồng nuôi vừa xảy ra dịch bệnh
Tiến hành quét dọn, thu gom toàn bộ rác, chất thải chăn nuôi, phân, chất độn chuồng và tiêu hủy bằng cách đốt, vệ sinh cơ học chuồng nuôi, khuôn viên trại; phun thuốc sát trùng 1 lần/ngày bằng các loại hóa chất như Benkocid, Omnicide, Han Iodine, Virkon, Povi dine theo hướng dẫn của nhà sản xuấ Rải vôi bột hoặc phun dung dịch vôi 1% lên toàn bộ bề mặt chuồng trại như nền chuồng, lối đi, hành lang, cống rãnh, đường vào trại… bảo đảm bề mặt phải được phủ trắng vôi các dụng cụ chăn nuôi, quần áo bảo hộ sử dụng 1 lần nên tiêu hủy bằng cách đốt.
Các bụi, cỏ dại trong trại, khu vực xung quanh phải được chặt bỏ, đốt cháy hoàn toàn. Cần nạo vét, khơi thông cống rãnh, dùng vôi bột rải lên toàn bộ bề mặt cống rãnh chủ động các biện pháp diệt ruồi muỗi, diệt chuột và các côn trùng khác.
6. Xử lý chất thải
Cần có biện pháp thu gom và xử lý chất thải phù hợp với điều kiện chăn nuôi bằng các giải pháp như sử dụng hệ thống biogas, ủ phân vi sinh hoặc dùng đệm lót sinh họ Khi có vật nuôi chết, tiêu hủy bằng phương pháp đốt cháy hoàn toàn hoặc chôn rải vôi bột, khử trùng theo đúng quy định thú y.
7. Định kỳ tiêm phòng vaccine và chủ động giám sát chặt chẽ tại cơ sở chăn nuôi
Khi có biểu hiện vật nuôi ốm chết không rõ nguyên nhân, bà con báo ngay cho cơ quan thú y và chính quyền địa phương phối hợp xử lý tìm nguyên nhân gây bệnh.

TÁC ĐỘNG CỦA MẦM BỆNH TỪ NGUỒN THỨC ĂN ĐẾN SẢN LƯỢNG TRỨNG CỦA GÀ ĐẺ
Kiểm soát các tác nhân gây bệnh từ nguồn thức ăn là quan trọng để duy trì năng suất đàn và thúc đẩy an toàn thực phẩm. Các chiến lược hiệu quả làm giảm tỷ lệ mắc các bệnh hạn chế hiệu suất như viêm ruột, cuối cùng là hạn chế tỷ lệ tử vong, duy trì tính đồng nhất của đàn và bảo vệ chất lượng trứng.
Sản xuất trứng thương mại đã có những bước tiến đáng kể trong những thập kỷ gần đây, được thúc đẩy bởi các yếu tố từ động lực kinh tế đến sở thích thay đổi của người tiêu dùng. Với những tiến bộ trong công nghệ và thực hành quản lý, ngành công nghiệp đã chứng kiến những cải thiện về hiệu quả cũng như những thách thức mới, đặc biệt là những thách thức liên quan đến sức khỏe và phúc lợi của gà mái đẻ. Nhiều thay đổi trong số này đã dẫn đến sự tập trung nhiều hơn vào cách các tác nhân gây bệnh từ nguồn thức ăn tác động đến sản xuất trứng gà đẻ.
1. Chất lượng thức ăn và sức khỏe đường ruột ảnh hưởng đến năng suất của gà đẻ
Đường ruột khỏe mạnh rất quan trọng đối với quá trình chuyển đổi thức ăn và hấp thụ chất dinh dưỡng hiệu quả. Sự gián đoạn của hệ vi sinh vật có thể dẫn đến các bệnh hạn chế hiệu suất như viêm ruột, làm suy yếu sự phát triển của nhung mao, làm giảm khả năng hấp thụ và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn.
Hệ vi sinh vật đường ruột của một lớp có trách nhiệm duy trì sức khỏe, năng suất và sức khỏe tổng thể. Bao gồm hàng nghìn tỷ vi sinh vật, bao gồm vi khuẩn, nấm và vi-rút, hệ vi sinh vật tương tác phức tạp với vật chủ, điều chỉnh quá trình hấp thụ chất dinh dưỡng, quá trình trao đổi chất và phản ứng miễn dịch. Sự gián đoạn trong thành phần hệ vi sinh vật, được gọi là loạn khuẩn, có thể gây ra nhiều rối loạn sức khỏe khác nhau, bao gồm viêm ruột, giảm chuyển đổi thức ăn và tăng khả năng mắc các bệnh truyền nhiễm.
Chất lượng thức ăn đóng vai trò then chốt trong việc định hình cấu trúc và chức năng của hệ vi sinh vật đường ruột ở gia cầm. Thức ăn, với tải lượng vi khuẩn thay đổi, đóng vai trò là vật trung gian đã được chứng minh cho các tác nhân gây bệnh do vi khuẩn và vi-rút. Sự hiện diện của tải lượng vi khuẩn cao trong thức ăn tương quan với sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh. Phân tích sâu rộng hàng nghìn mẫu thức ăn và thành phần thức ăn được thu thập trên toàn cầu và được Phòng thí nghiệm Anitox kiểm tra đã chỉ ra rằng thức ăn là nơi chứa nhiều loại vi khuẩn khác nhau.
Không giống như các đường lây truyền khác, thức ăn được sản xuất tập trung, phân phối khắp các hoạt động nuôi gà đẻ thương mại và được tiêu thụ hàng ngày. Nhiều tác nhân gây bệnh cho gia cầm, bao gồm vi khuẩn, vi-rút và nấm, đã được truy nguyên từ nguồn thức ăn. Nguyên liệu thô bị ô nhiễm, đặc biệt là trong quá trình thu hoạch ướt, là nơi sinh sôi của nấm mốc, vi khuẩn và độc tố nấm mốc, tìm đường vào thức ăn thành phẩm. Các sản phẩm phụ từ động vật và các thành phần thức ăn khác chứa nhiều vi khuẩn, làm trầm trọng thêm nguy cơ. Không giống như các chế độ ăn khác của gia cầm, thức ăn nghiền không tiếp xúc với nhiệt thông thường thông qua quá trình viên và vẫn đặc biệt dễ bị nhiễm mầm bệnh.
2. Vi khuẩn Salmonella
Salmonella là tác nhân gây bệnh trong thức ăn chăn nuôi được nghiên cứu thường xuyên nhất, với hơn 500 ấn phẩm hiện có. Ví dụ, một nghiên cứu giám sát được tiến hành tại Hoa Kỳ từ năm 2002 đến năm 2009 của Livà cộng sự (2012) đã ghi nhận tỷ lệ nhiễm Salmonella là 12,5% trong các mẫu thức ăn chăn nuôi và thành phần thức ăn chăn nuôi lấy từ các cơ sở sản xuấ Ngoài ra, Kukier và cộng sự (2013) đã tiến hành một cuộc khảo sát cho thấy sự hiện diện của các tác nhân gây bệnh trong nhiều thành phần thức ăn chăn nuôi khác nhau, cho thấy 0,7% protein có nguồn gốc từ động vật, 2,2% bột hạt có dầu và 1,3% mẫu ngũ cốc có kết quả xét nghiệm dương tính với Salmonella. Morita và cộng sự (2007) và Wierup và cộng sự (2010) cũng xác định được Salmonella trong các mẫu bột đậu nành và bột hạt cải dầu ở các tỷ lệ khác nhau. Trong một báo cáo gần đây của Munoz và cộng sự (2021), một nghiên cứu kéo dài một năm trên năm nhà máy đã tiết lộ tỷ lệ nhiễm Clostridium spp. cao và sự hiện diện của E. coli trong các thành phần lấy mẫu và thức ăn chăn nuôi thành phẩm.
Sự phá vỡ hệ vi sinh vật do các tác nhân gây bệnh trong thức ăn như Clostridia có thể làm tăng nguy cơ viêm ruột trong các hệ thống sản xuất gà đẻ. Các đợt bùng phát viêm ruột trong đàn gà đẻ thường biểu hiện theo hai cách quan trọng, phá vỡ sự đồng đều của đàn trước khi bắt đầu đẻ và làm giảm năng suất sau 18 tuần tuổi. Trọng lượng cơ thể gà đẻ khi trưởng thành đóng vai trò quan trọng trong việc xác định trọng lượng trứng và tổng sản lượng trứng và phần lớn bị ảnh hưởng bởi các biện pháp quản lý và dinh dưỡng. Các trường hợp nhẹ có thể làm tăng tỷ lệ chuyển đổi thức ăn trong khi các bệnh nghiêm trọng, như hoại tử tá tràng khu trú, có thể làm giảm sản lượng tới 10% và ảnh hưởng đáng kể đến kích thước trứng.
3. Vệ sinh thức ăn hỗ trợ năng suất gà đẻ
Để tối ưu hóa sản lượng trứng, cần phải có nỗ lực chung để đảm bảo thức ăn sạch, không có mầm bệnh. Bằng cách giảm lượng vi khuẩn trong thức ăn và thành phần, người chăn nuôi gà đẻ có thể tăng cường sức khỏe đường ruột, tăng cường chuyển đổi năng lượng và bảo vệ năng suất đàn khỏi bệnh viêm ruột và các bệnh hạn chế hiệu suất khác.
Việc kết hợp các giao thức vệ sinh thức ăn vào quá trình sản xuất gà đẻ không chỉ kiểm soát lượng vi khuẩn xâm nhập mà còn thúc đẩy sự phát triển của ruột, thúc đẩy hệ vi sinh cân bằng và tăng cường hiệu suất và sức khỏe tổng thể. Dữ liệu ban đầu từ các nghiên cứu đang tiến hành cho thấy các phương pháp vệ sinh thức ăn hiệu quả có thể ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn Salmonella vào gà mái thông qua thức ăn, do đó tăng cường sản lượng trứng trong thời kỳ đẻ trứng cao điểm. Hơn nữa, vệ sinh thức ăn ảnh hưởng đến thành phần hệ vi sinh, tạo nền tảng cho những con gia cầm khỏe mạnh hơn trong suốt chu kỳ sản xuất.
Trong bối cảnh nhu cầu ngày càng cao của ngành sản xuất gia cầm hiện đại, nơi mà hiệu quả, an toàn và dinh dưỡng có tầm quan trọng sống còn, vệ sinh thức ăn trở thành một công cụ thiết yếu để kiểm soát mầm bệnh từ nguồn thức ăn. Đảm bảo thức ăn sạch tại điểm tiêu thụ đóng vai trò như một biện pháp phòng vệ chống lại sự phổ biến của mầm bệnh trong các hệ thống sản xuất sống, thúc đẩy sức khỏe đường ruột, chuyển đổi năng lượng hiệu quả và cuối cùng là giảm tỷ lệ mắc các bệnh hạn chế hiệu suất, tỷ lệ tử vong của gia cầm và nhiễm bẩn trứng trong các hệ thống sản xuất gà đẻ.

TÁC ĐỘNG CỦA STRESS OXY HOÁ
Chăn nuôi thâm canh khiến động vật phải tiếp xúc với nhiều yếu tố gây căng thẳng khác nhau trong suốt vòng đời của chúng như căng thẳng do nhiệt, căng thẳng cai sữa, độc tố, mầm bệnh và chế độ ăn không cân bằng. Quá trình đóng vai trò trung tâm trong tất cả các tình huống này là căng thẳng oxy hóa. Căng thẳng oxy hóa là do các loài oxy phản ứng (ROS) gây ra, có thể có nguồn gốc từ các nguồn ngoại sinh và nội sinh. ROS là các phân tử có khả năng phản ứng cao có khả năng gây tổn hại đến các đại phân tử như lipid, protein và DNA. Quá trình oxy hóa các thành phần này gây tổn thương tế bào đến mức dẫn đến chết tế bào và cuối cùng là tổn thương mô.
1. Viêm
- Các loài oxy phản ứng khởi tạo một con đường truyền tín hiệu nội bào gây viêm và sản xuất các cytokine tiền viêm. Tùy thuộc vào nồng độ ROS mà tình trạng viêm được điều hòa hoặc cường điệu. Mặt khác, ROS là một phần của quá trình viêm để chống lại các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm và góp phần vào khả năng phòng vệ miễn dịch bình thường của động vật. Thật vậy, tại vị trí bị thương và bị viêm, các tế bào miễn dịch sản xuất và giải phóng một lượng lớn ROS để tiêu diệt tác nhân gây bệnh, cuối cùng dẫn đến stress oxy hóa. Do đó, viêm và stress oxy hóa là các sự kiện bệnh sinh có liên quan chặt chẽ với nhau. Một trong số chúng có thể xuất hiện trước hoặc sau cái kia, nhưng khi một trong số chúng xuất hiện thì cái kia có nhiều khả năng xuất hiện sau và làm trầm trọng thêm cái đầu tiên. Cả hai quá trình đều gây tổn thương tế bào và mô và tham gia vào quá trình sinh bệnh của nhiều bệnh mãn tính.
2. Giảm sức khỏe đường ruột
- Mặc dù có hàng rào bảo vệ do niêm mạc tạo ra, đường tiêu hóa vẫn dễ bị tấn công bởi ROS vì nó chứa nhiều nguồn ROS tiềm ẩn. Các loài oxy phản ứng có thể làm tổn hại hàng rào ruột bằng cách phá vỡ các protein liên kết chặt chẽ dẫn đến tăng tính thấm của ruột và tạo điều kiện cho sự vận chuyển độc tố ( nội độc tố, độc tố nấm mốc …) và các tác nhân gây bệnh. Ngoài ra, động vật trải qua stress oxy hóa biểu hiện chiều cao nhung mao và độ sâu hốc giảm, làm giảm bề mặt hấp thụ chất dinh dưỡng.
3. Tổn thương gan và thận
- Gan và thận là những cơ quan rất dễ bị tổn thương do ROS gây ra. Giống như ruột, gan và thận có các mối nối chặt tạo thành các rào cản bị tổn thương trong quá trình stress oxy hóa. Nhiều loại tế bào gan rất dễ bị stress oxy hóa, dẫn đến thay đổi chức năng tế bào gan, viêm và xơ hóa. Stress oxy hóa không chỉ gây ra tổn thương tế bào gan bằng cách gây ra sự thay đổi không thể phục hồi đối với lipid, protein và DNA mà quan trọng hơn là điều chỉnh các con đường như phiên mã gen, biểu hiện protein, apoptosis tế bào và phục hồi tế bào gan. Các con đường này điều chỉnh các quá trình quan trọng trong gan và kiểm soát các chức năng sinh học bình thường. Đối với thận, ROS xâm nhập vào mô thận và làm suy thoái các cấu trúc chính trong thận liên quan đến quá trình bài tiết nhiều loại chất thải do quá trình chuyển hóa tế bào tạo ra vào nước tiểu.
4. Giảm hiệu suất
- Căng thẳng oxy hóa ảnh hưởng đáng kể đến hiệu suất của động vật. Viêm gây ra, cùng với việc sửa chữa các mô bị tổn thương đòi hỏi năng lượng và chuyển hướng chất dinh dưỡng ra khỏi quá trình sản xuất, dẫn đến tổn thất kinh tế cho người nông dân. Hơn nữa, các cytokine gây viêm ức chế sự thèm ăn dẫn đến giảm hấp thụ chất dinh dưỡng cho mục đích sản xuất.

5 ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ BỆNH THIẾU MÁU TRUYỀN NHIỄM TRÊN HEO
Mycoplasma suis – gây ra thiếu máu và mất sữa ở heo. Bệnh do vi khuẩn Mycoplasma suis kí sinh trên và trong tế bào hồng cầu gây tình trạng nhiễm trùng máu toàn thân gây giảm tăng trọng, heo còi cọc, chậm lớn, gây ra thiệt hại lớn đối với năng suất chăn nuôi.
Bệnh thiếu máu truyền nhiễm trên heo do vi khuẩn Mycoplasma suis kí sinh trên và trong tế bào hồng cầu gây thiếu máu, nhiễm trùng toàn thân.
Bệnh lây nhiễm qua đường máu, không lây qua nước bọt, nước tiểu hay tinh dịch. Heo còn có thể bị lây nhiễm M. suis qua các dụng cụ thú y (kim tiêm, dụng cụ phẫu thuật), vết chích côn trùng hút máu…
Bệnh thường bùng phát nhiều ở thời điểm giao mùa, mùa mưa, độ ẩm cao, điều kiện chuồng trại kém,….
Bệnh có thể xảy ra mọi lứa tuổi :heo con theo mẹ, cai sữa, vỗ béo, cao nhất trên heo nái.
Do ít có thông tin về bệnh, các triệu chứng của bệnh Mycoplasma Suis dễ nhầm lẫn với các bệnh phổ biến khác trên heo như bệnh do Circovirus type 2, Glasser, bệnh do Leptospira, bệnh do thiếu sắt…
Việc sử dụng thường xuyên kháng sinh nhóm Tetracycline trong phòng – trị bệnh trên heo làm giảm đi dấu hiệu lâm sàng khiến việc chẩn đoán và kiểm soát bệnh không được chặt chẽ, dẫn đến M. suis lây nhiễm nhanh bên trong trại và giữa các trại heo, nhất là tại Việt Nam. Tỷ lệ trại heo nhiễm M. suis có thể rất cao, và tỷ lệ heo nhiễm có thể đến 88- 100%.
Môi trường chăn nuôi
