Tin tức chăn nuôi

Đồng Nai: Xử lý vi phạm về chất lượng thức ăn chăn nuôi

Đồng Nai: Xử lý vi phạm về chất lượng thức ăn chăn nuôiTheo báo cáo của Sở NN-PTNT về kết quả hoạt động thanh tra trực tiếp các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi, thủy sản trên địa bàn tỉnh, đợt kiểm tra vào cuối năm 2021, Đoàn thanh tra đã kiểm tra tại 30 cơ sở gồm 13 công ty và 17 cửa hàng tại các địa phương trên địa bàn tỉnh. Kết quả, có 9 cơ sở vi phạm về kinh doanh thức ăn chăn nuôi kém chất lượng và vi phạm về kinh doanh thức ăn chăn nuôi giả về chất lượng và các vi phạm khác với tổng số tiền phạt trên 45,5 triệu đồng. Người chăn nuôi e ngại chất lượng thức ăn chăn nuôi kém chất lượng. Ảnh: Trại nuôi heo tại H.Thống Nhất. Ảnh: Phan Anh  Về kết quả phân tích kiểm tra chất lượng 50 mẫu thức ăn chăn nuôi, thủy sản tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh có 44/50 mẫu thức ăn chăn nuôi, thủy sản đạt chất lượng theo hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, chiếm 88%. Có 6/50 mẫu thức ăn chăn nuôi, thủy sản vi phạm về chất lượng, chiếm 12%. Trong đó có 3 mẫu thức ăn chăn nuôi, thủy sản vi phạm có chỉ tiêu không đạt chất lượng so với tiêu chuẩn đã công bố; 3 mẫu vi phạm giả về chất lượng có hàm lượng chất chính đạt dưới 70% so với hồ sơ công bố. Không phát hiện các chất cấm trong các mẫu thức ăn chăn nuôi, thủy sản đưa đi phân tích. Nguồn: Báo Đồng Nai

Công nghệ SPR trong thiết kế và đánh giá hiệu quả vắc xin

Sự thiếu hiệu quả trong gây đáp ứng miễn dịch là rào cản lớn nhất khi nghiên cứu sản xuất vắc xin mới. Trước thách thức này, phương pháp cộng hưởng plasmon bề mặt (Surface Plasmon Resonance – SPR) nổi lên như là một công cụ hiệu quả xác định chính xác cấu trúc gây ra đáp ứng miễn dịch, từ đó xác định được loại vắc xin an toàn, hiệu quả cao. Công nghệ SPR cung cấp cơ sở đáng tin cậy để sàng lọc các loại vắc xin phòng chống nhiều bệnh khác nhau như sốt rét, cúm hoặc thậm chí là bệnh ung thư. Ngoài ra, công nghệ này còn giúp đánh giá hiệu quả đáp ứng miễn dịch của cơ thể trong nghiên cứu lâm sàng thông qua kiểm tra huyết thanh của từng cá thể thử nghiệm.Vài nét về công nghệ SPRCông nghệ SPR dựa trên việc sử dụng cảm biến quang học giúp đánh giá tương tác phân tử trong thời gian thực mà không cần đánh dấu phân tử mục tiêu. Không cần đánh dấu phân tử trong phân tích tương tác phân tử đồng nghĩa với việc có thể tăng độ chính xác khi phân tích động lực học tương tác, giảm thời gian phân tích, giảm chi phí và hiện tượng tương tác không đặc hiệu giữa phân tử mục tiêu và phân tử đánh dấu. Công nghệ này mới được phát triển trong thời gian gần đây và hứa hẹn sẽ phát triển mạnh hơn nữa trong tương lai. Nhờ công nghệ SPR, quá trình nghiên cứu và phát triển vắc xin được đẩy mạnh tại hàng loạt công ty hàng đầu trong sản xuất vắc xin như Crucell (Hà Lan), Algonomics (Bỉ), Novavax (Mỹ)…Cấu trúc cơ bản của chip cảm biến trong hệ thống phân tích của SPR làm bằng vật liệu cho độ phản xạ tốt, một mặt có gắn lớp ma trận giúp gắn nhiều loại phối tử (ligand) để khảo sát nhiều kiểu tương tác khác nhau, một mặt được phủ lớp kim loại mỏng (thường là vàng). Cấu tạo và cơ chế hoạt động cơ bản của hệ thống được trình bày ở hình 1. Bề mặt chip cảm biến trong công nghệ SPR cho phép gắn nhiều loại phối tử khác nhau theo liên kết cộng hóa trị, tương tác đặc hiệu theo vị trí (ví dụ chip NTA dùng cho gắn protein His-tag, chip streptavidin/neutravidin dùng cho protein gắn biotin…) hoặc tương tác kị nước (chip HPA – hãng GE Healthcare)… [1].  Ứng dụng của công nghệ SPR trong thiết kế và đánh giá hiệu quả vắc xinTrong thiết kế vắc xinCúm là bệnh dịch dễ bùng phát theo mùa và dẫn đến các đại dịch toàn cầu như chủng H5N1. Để phòng tránh cần một phương pháp sản xuất vắc xin hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn cùng với đó là phương pháp phân tích nhanh và đơn giản. Với nhu cầu đó, phương pháp SPR hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu sàng lọc, phát triển vắc xin nhanh chóng và đem lại hiệu quả cao.Về mặt lý thuyết, sự tương tác giữa các phức hợp miễn dịch (ICs) và thụ thể của vùng Fc (FcRs) là một quá trình cần thiết cho sự phát triển của kháng thể khi tiêm vắc xin. Loại FcRs và cấu trúc Fc trong ICs quyết định các tín hiệu trong tế bào sẽ diễn ra như thế nào. Trong khi đó, phân nhóm IgG (kháng thể) và thành phần glycan Fc (nhóm đường gắn với kháng thể) sẽ quyết định cấu trúc của Fc. Khi nghiên cứu cấu trúc glyco-form kháng hemagglutinin (một loại kháng nguyên) liên quan đến sự chọn lọc của tế bào B và hiệu quả vắc xin bằng phương pháp SPR [2], Wang và cộng sự đã thay đổi cấu trúc của vùng Fc trên kháng thể IgG (được tiết ra nhờ đáp ứng miễn dịch với vắc xin cúm) bằng cách thay đổi phân nhóm IgG và thành phần glycan Fc. Sau đó các tác giả so sánh sự ảnh hưởng đáp ứng miễn dịch của các loại phức hợp này trên môi trường in vivo và in vitro.Trong thí nghiệm với hệ thống phân tích SPR, kháng thể IgG được tiết ra từ chủng chuột hoang dại hoặc CD23-/- chứa sFc (Fc được gắn gốc sialic axit) sẽ được gắn trên bề mặt chip cảm biến. Protein HA sẽ đi qua bề mặt chip và tương tác với nhiều loại IgG khác nhau trên bề mặt, sau đó hằng số tỷ lệ phân ly (kd) được ước lượng từ bộ cảm biến. Kết quả cho thấy, phức hợp miễn dịch có kháng thể có vùng Fc gắn gốc sialic axit (sIC) trong chủng chuột hoang dại có ái lực cao hơn từ 10 đến 20 lần (kd thấp hơn) so với phức hợp miễn dịch asialylated và sIC trên chủng chuột CD23-/-. Kết quả thu được từ hệ thống SPR cùng với các kết quả từ thử nghiệm in vitro và in vivo đã giúp các nhà khoa học đưa ra con đường thành thục ái lực của kháng thể. Từ đây, có thể mở ra hướng nghiên cứu nhiều loại kháng thể có ái lực cao phục vụ trong nghiên cứu vắc xin.Đánh giá hiệu quả gây đáp ứng miễn dịch của vắc xin và vai trò của tá dượcHệ thống SPR không chỉ giúp các nhà khoa học giải quyết vấn đề ở bước đầu nghiên cứu vắc xin mà còn cả ở trong nghiên cứu lâm sàng với một loại vắc xin. Trong nghiên cứu lâm sàng, các mẫu huyết thanh sẽ được sàng lọc để xác định khả năng đáp ứng của hệ miễn dịch với các loại vắc xin khác nhau.Một ví dụ cụ thể về nghiên cứu đáp ứng của hệ miễn dịch với vắc xin cúm có hoặc không có tá dược đã được Tanja Jaherde và cộng sự thực hiện [3]. Trong nghiên cứu này, hai nhóm người trưởng thành được chia ra để tiêm vắc xin Vaxigrip™ có hoặc không có tá dược. Mẫu huyết thanh của hai nhóm người này được lấy ở các thời điểm khác nhau (0, 7, 28, 90 và 150 ngày) sau khi tiêm vắc xin và sàng lọc với hệ thống SPR (Biacore 4000 – GE Healthcare). Sau đó, hơn 500 mẫu huyết thanh được sàng lọc đánh giá sự tương tác với protein HA từ chủng cúm Brisbane B, California H1N1, Perth H3N2 và vắc xin Vaxigrip™. Tính năng chạy song song nhiều mẫu với nhiều kênh dòng chảy trên cùng một chip của hệ thống SPR cho phép các nhà nghiên cứu có thể sàng lọc được sự tương tác giữa 4 mẫu huyết thanh khác nhau và 4 mẫu protein HA/vắc xin khác nhau trong cùng một lần chạy. Mức độ tương tác của protein HA và vắc xin Vaxigrip™với kháng thể được đánh giá cho từng người thử nghiệm. Kết quả chạy SPR cho thấy, hầu hết phản ứng miễn dịch của các cá nhân cao nhất ở ngày thứ 28. Một số cá nhân có đáp ứng miễn dịch cao sau ngày 28 nhưng hầu hết phản ứng miễn dịch của phần lớn người tham gia thử nghiệm đều giảm sau ngày 28. Từ đây cho thấy được mức độ đáp ứng của cơ thể với sự tương tác của protein HA/vắc xin và kháng thể.Bên cạnh đó, các dữ liệu phân tích từ hệ thống SPR còn cho thấy, với các bệnh nhân được tiêm vắc xin có tá dược sẽ có mức độ biểu hiện nhiều kháng thể kháng Brisbane, California, Vaxigrip™ vào ngày thứ 7 và 28 hơn so với nhóm tiêm vắc xin không có tá dược.Xác định đáp ứng của hệ miễn dịch với vắc xin khi sử dụng hệ thống SPR sẽ giúp các nhà nghiên cứu xác định được thông tin chi tiết về khả năng đáp ứng miễn dịch của từng người, phân tích và so sánh song song để đưa ra kết quả chính xác nhất trong thời gian ngắn. Ngoài ra, hệ thống SPR còn có thể xác định được đáp ứng miễn dịch ở giai đoạn sớm khi mà ái lực của kháng thể ở giai đoạn này thấp và khó xác định bằng các phương pháp thông thường.Thay cho lời kếtVới những ưu thế trong quá trình thiết kế và sàng lọc vắc xin như tự động hóa quá trình sàng lọc, giảm thời gian và khối lượng mẫu cần thiết, đồng thời mang lại khả năng khảo sát nhạy hơn với độ tin cậy cao, hệ thống phân tích SPR sẽ đóng một vai trò quan trọng trong nghiên cứu thiết kế và tối ưu vắc xin cũng như tá dược, giúp phòng ngừa nhiều bệnh như HIV, bại liệt, cúm, viêm gan… Từ những phân tích như lập bản đồ epitope (Epitope là yếu tố quyết định kháng nguyên của một vật lạ với cơ thể như virus hoặc vi khuẩn. Trên bề mặt vật lạ có thể có nhiều epitope, bản đồ epitope cho phép người nghiên cứu xác định được các epitope trên bề mặt vật lạ đó), động lực học, ái lực, nhiệt động lực học, độ chọn lọc và nồng độ, các nhà nghiên cứu có thể xác định rõ hơn đặc tính và tác động của chúng lên hệ miễn dịch, từ đó giúp phát triển được vắc xin an toàn và hiệu quả. Nguồn: Tạp chí KH&CN Việt Nam

Nhập khẩu khô đậu tương năm 2022 dự báo đạt trên 5 triệu tấn

[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong tháng 7/2022 và tuần đầu tháng 8/2022, giá xuất khẩu khô đậu tương tại các thị trường đều tăng so với tháng trước do nhu cầu tăng, trong khi nguồn cung hạn chế tại Nam Mỹ. 6 tháng đầu năm 2022, lượng nhập khẩu khô đậu tương về Việt Nam đạt 2,44 triệu tấn, trị giá 1,35 tỷ USD, giảm 0,8% về lượng nhưng 7,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 49,4% về lượng và 51,6% về trị giá trong tổng nhập khẩu TACN&NL về Việt Nam.Thế giớiVề cung cầu: USDA dự báo sản lượng khô đậu tương toàn cầu vụ 2022/23 đạt 256,8 triệu tấn, tương đương với dự báo trước và tăng 10,8 triệu tấn so với niên vụ trước. Trong đó, sản lượng khô đậu tương của Trung Quốc chiếm đến 29,3% tỷ trọng trong tổng sản lượng khô đậu tương toàn cầu, đạt 75,2 triệu tấn, tương đương với dự báo trước và tăng 6,3 triệu tấn so với niên vụ trước; Tiếp đến là sản lượng khô đậu tương của Mỹ chiếm 18,7% tỷ trọng, đạt 47,9 triệu tấn, tăng 1 triệu tấn so với niên vụ trước; Sản lượng của Braxin và Achentina đạt lần lượt 38,4 triệu tấn và 32 triệu tấn, chiếm lần lượt 15% và 12,5% tỷ trọng.Lượng xuất khẩu khô đậu tương toàn cầu dự kiến đạt 69,9 triệu tấn trong niên vụ 2022/23, giảm nhẹ so với dự báo trước nhưng tăng 1,3 triệu tấn so với niên vụ trước. Trong đó, Achentina dự kiến xuất khẩu 28,5 triệu tấn, tăng 0,2 triệu tấn so với niên vụ trước; Braxin xuất khẩu 18,1 triệu tấn, giảm 0,4 triệu tấn; Mỹ xuất khẩu 12,7 triệu tấn, tăng 0,3 triệu tấn so với niên vụ trước. Nhu cầu nhập khẩu khô đậu tương toàn cầu vụ 2022/23 dự kiến đạt 65,1 triệu tấn, giảm nhẹ so với dự báo trước nhưng tăng 1,1 triệu tấn so với niên vụ 2021/22.Việt Nam là nước nhập khẩu khô đậu tương lớn thứ 3 thế giới (sau EU và Indonesia), dự kiến đạt 5,3 triệu tấn, tăng 0,1 triệu tấn so với niên vụ trước. Tồn kho cuối kỳ khô đậu tương toàn cầu niên vụ 2022/23 dự kiến đạt 14,2 triệu tấn, tăng 0,1 triệu tấn so với dự báo trước và tăng 0,3 triệu tấn so với niên vụ 2021/22. Nhu cầu tiêu thụ khô đậu tương toàn cầu trong niên vụ 2022/23 dự kiến đạt 251,7 triệu tấn, tăng 0,3 triệu tấn so với dự báo trước và tăng 9,6 triệu tấn so với niên vụ trước. Trong đó, Trung Quốc dự kiến tiêu thụ 74,3 triệu tấn, tăng 5,9 triệu tấn so với niên vụ trước và chiếm 29,5% tổng tiêu thụ khô đậu tương toàn cầu. Tiếp đến là Mỹ, nhu cầu tiêu thụ trong niên vụ 2022/23 dự kiến đạt 35,6 triệu tấn, tăng 0,7 triệu tấn so với niên vụ trước và chiếm 14,1% tỷ trọng. Tiêu thụ khô đậu tương của EU đạt 28,7 triệu tấn, tăng 0,2 triệu tấn so với niên vụ trước và chiếm 11,4% tỷ trọng; Việt Nam dự kiến tiêu thụ 6,3 triệu tấn, chiếm 2,5% tỷ trọng.     Dự báo về sản lượng khô đậu tương niên vụ 2022/23 tại một số nước trồng lớn (ĐVT: triệu tấn) Về giáTrong tháng 7/2022 và tuần đầu tháng 8/2022, giá xuất khẩu khô đậu tương tại các thị trường đều tăng so với tháng trước do nhu cầu tăng, trong khi nguồn cung hạn chế tại Nam Mỹ. Cụ thể, giá khô đậu tương 48% protein giao tháng 10/2022 của Mỹ ở mức 615 USD/tấn, FOB, Nola, tăng 75 USD/tấn so với tháng trước và tăng 181 USD/tấn so với cùng kỳ năm 2021. Giá xuất khẩu khô đậu tương 47 pro tại Achentina giao tháng 10/2022 ở mức 540 USD/tấn, FOB, tăng 55 USD/tấn so với tháng trước và tăng 145 USD/tấn so với cùng kỳ năm 2021. Tại Braxin, giá xuất khẩu khô đậu tương giao tháng 10/2022 ở mức 545 USD/tấn, tăng 25 USD/tấn so với tháng trước và tăng 142 USD/tấn so với cùng kỳ năm 2021. Giá khô đậu tương xuất khẩu của các nước Nam Mỹ và Mỹ trong tháng tới dự kiến giảm nhẹ do triển vọng nguồn cung dồi dào trong niên vụ 2022/23, và giá các hang hóa nông sản giảm. Trong nướcKim ngạch nhập khẩu khô đậu tương: Theo thống kê từ số liệu của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu khô đậu tương về Việt Nam trong tháng 6/2022 đạt 563,9 nghìn tấn, trị giá 326 triệu USD, giảm 1,2% về lượng và giảm 4,5% về trị giá so với tháng trước, nhưng tăng 58% về lượng và tăng 81,6% về trị giá so với tháng 6/2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, lượng nhập khẩu khô đậu tương về Việt Nam đạt 2,44 triệu tấn, trị giá 1,35 tỷ USD, giảm 0,8% về lượng nhưng tăng 7,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 49,4% về lượng và 51,6% về trị giá trong tổng nhập khẩu TACN&NL về Việt Nam.Dự báo lượng nhập khẩu khô đậu tương về Việt Nam trong năm 2022 đạt trên 5 triệu tấn, trị giá 2,7 tỷ USD, giảm 0,4% về lượng và giảm 8% về trị giá so với năm 2021.Về thị trường cung cấp: Trong 6 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu khô đậu tương từ 7 thị trường, trong đó Achentina và Braxin là hai thị trường cung cấp khô đậu tương lớn nhất. Lượng nhập khẩu khô đậu tương từ Achentina chiếm 56,2% tổng lượng khô đậu tương nhập khẩu, đạt 1,37 triệu tấn, giảm 15,9% so với cùng kỳ năm 2021. Braxin là thị trường cung cấp khô đậu tương lớn thứ 2 cho Việt Nam, đạt 914,8 nghìn tấn trong 6 tháng đầu năm 2022, tăng 109,4% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm 37,5% tỷ trọng nhập khẩu.Lượng nhập khẩu khô đậu tương từ Mỹ giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm 2022, đạt 100,6 nghìn tấn, giảm 60,2% so với cùng kỳ năm 2021.Giá nhập khẩu trung bình khô đậu tương trong tháng 6/2022 ở mức 578 USD/tấn, giảm 3,4% so với tháng trước, nhưng tăng 14,9% so với tháng 6/2021. Giá nhập khẩu khô đậu tương từ thị trường Mỹ cạnh tranh nhất, đạt 505 USD/tấn, giảm 8% so với tháng trước. Tiếp đến là giá nhập khẩu khô đậu tương từ thị trường Achentina đạt 512 USD/tấn, tăng 1,6% so với tháng trước, nhưng giảm 1,5% so với tháng 6/2021.

Xuất khẩu thức ăn gia súc 7 tháng đầu năm 2022 tăng 9,2%

7 tháng đầu năm 2022 xuất khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc đạt 680,25 triệu USD, tăng 9,2% so với 7 tháng đầu năm 2021.Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 7/2022 đạt 94,76 triệu USD, giảm16,8% so với tháng 6/2022 nhưng tăng 2% so với tháng 7/2021.Tính chung cả 7 tháng đầu năm 2022 xuất khẩu nhóm hàng này đạt 680,25 triệu USD, tăng 9,2% so với 7 tháng đầu năm 2021.Trung Quốc luôn là thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam, chiếm 40,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt 276,8 triệu USD, tăng 25,2% so với 7 tháng năm 2021; trong đó riêng tháng 7/2022 đạt 28,61 triệu USD, giảm 29,5% so với tháng 6/2022 và giảm 13% so với tháng 7/2021.Tiếp sau đó là thị trường Campuchia trong tháng 7/2022 tăng 17% so với tháng 6/2022 và cũng tăng 22,6% so với tháng 7/2021, đạt 18,81 triệu USD; tính chung cả 7 tháng đầu năm 2022 xuất khẩu sang thị trường này tăng 7,6% so với 7 tháng đầu năm 2021; đạt 96,99 triệu USD, chiếm 14,3% trong tổng kim ngạch.Xuất khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu sang thị trường Mỹ chiếm tỷ trọng 13,1%, đạt 89,08 triệu USD, tăng 32,2%; riêng tháng 7/2022 xuất khẩu sang thị trường này đạt 16,17 triệu USD, tăng 4% so với tháng 6/2022 và tăng 47,6% so với tháng 7/2021.Xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu sang thị trường FTA RCEP 7 tháng đầu năm 2022 tăng 18% so với 7 tháng đầu năm 2021, đạt 508,06 triệu USD; Xuất khẩu sang thị trường FTA CPTTP tăng 6,7%, đạt 64,15 triệu USD.Xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 7 tháng đầu năm 2022 (Theo số liệu công bố ngày 11/8/2022 của TCHQ). ĐVT: USDTừ Trung tâm TTCN&TM

Tổng quan về tình hình chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022

Tổng quan về tình hình chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong 6 tháng đầu năm 2022, dịch bệnh trên đàn vật nuôi diễn biến phức tạp, ngành chăn nuôi vẫn gặp khó khăn do giá thức ăn ở mức cao, đặc biệt đối với hộ chăn nuôi quy mô nhỏ nhưng về cơ bản, chăn nuôi vẫn tăng trưởng.I. Về tình hình chăn nuôi nói chungĐàn vật nuôi tăng 5,7%Theo số liệu của Tổng cục Thống kê so với cùng kỳ năm 2021, tại thời điểm tháng 6/2022, tổng đàn lợn ước tính tăng 3,8%, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng khoảng 2,12 triệu tấn (tăng 5,7%); đàn gia cầm tăng 1,2%, sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng khoảng 980 ngàn tấn (tăng 5,2%), sản lượng trứng khoảng 8,8 tỷ quả (tăng 4,8%); tổng đàn bò tăng 2,2%, sản lượng thịt bò hơi khoảng 241,2 ngàn tấn (tăng 4,4%), sản lượng sữa tươi khoảng 617,8 triệu lít (tăng 10,1%); tổng số trâu giảm 1,4%, tuy nhiên sản lượng thịt trâu hơi khoảng 62 ngàn tấn (tăng 1,8%). Ước tính 6 tháng đầu năm 2022, tốc độ tăng GTSX ngành chăn nuôi đạt 5,7% (toàn ngành nông nghiệp đạt 2,8%).Sản xuất thức ăn chăn nuôi đạt 10,5 triệu tấnSản lượng TACN công nghiệp 6 tháng năm 2022 ước đạt 10,5 triệu tấn tương đương so với 6 tháng đầu năm 2021; trong đó thức ăn cho lợn (chiếm khoảng 55% tổng sản lượng) tăng khoảng 13,2%, cho gia cầm (chiếm 40%) giảm khoảng 8,6%, loại khác (chiếm 5%) giảm khoảng 12,5%.Thị trường sản phẩm chăn nuôi Giá lợn thịt hơi xuất chuồng6 tháng đầu năm 2022, giá lợn thịt hơi xuất chuồng bán tại cổng trại theo xu hướng tăng ở cả 3 miền, duy trì ở mức từ 55.000-59.000 đg/kg trong thời gian dài. Trong 2 tuần đầu tháng 7/2022, giá tăng mạnh từ 12-15% so với mức giá bình quân trong tháng 6/2022, đặc biệt tại một số tỉnh khu vực miền Bắc. Hiện nay, giá đang dao động từ 63.000-68.000 đg/kg tại miền Bắc, từ 58.000-63.000 đg/kg tại miền Trung, Tây Nguyên và từ 54.000-63.000 đg/kg tại các tỉnh khu vực miền Nam. Mức giá hiện nay tương đương với cùng kỳ năm 2021.Giá sản phẩm gia cầm: so với thời điểm tháng 01/2022, bình quân trong tháng 6/2022 giá các sản phẩm chính đa số đều tăng.Nhóm gà thịt lông màu nuôi công nghiệp theo xu hướng tăng tại cả 3 miền, giá bình quân dao động từ 40.000-42.000 đg/kg tăng lên 55.000-57.000 đg/kg. Giá con giống tăng từ 5.500-6.500 đg/con lên 9.500-11.500 đg/con.Nhóm gà thịt lông trắng: giá bình quân dao động từ 26.000-30.000 đg/kg tăng lên 33.000-36.000 đg/kg tùy từng khu vực. Trong khi giá con giống ổn định từ 6.000-8.000 đg/con.Giá các sản phẩm vịt cũng tăng mạnh, trong đó giá vịt Super M tăng trung bình từ 34.900 đg/kg lên 47.500 đg/kg; giá vịt thịt Grimaud tăng trung bình từ 34.600 đg/kg lên 48.500 đg/kg (tăng 40%).Giá các sản phẩm trứng gà dao động từ 1.600-2.500 đg/quả; trứng vịt từ 2.070-2.700 đg/quả tùy từng khu vực; giá khu vực miền Bắc cao hơn các khu vực còn lại).Giá sản phẩm gia súc ăn cỏ: Giá thịt bò ổn định trong khoảng 90.000-92.500 đg/kg; giá sữa tươi bình quân dao động trong khoảng 12.500-13.500 đg/kg.Giá nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi thành phẩm– Do ảnh hưởng của giá nguyên liệu TACN trên thế giới, giá nguyên liệu TACN trong 6 tháng đầu năm 2022 đều tăng so với cùng kỳ 2021, cụ thể:  Nguyên nhân chính dẫn đến tăng giá:– Giá nông sản thế giới đã được thiết lập mặt bằng giá mới (trong đó có giá gạo và hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng).– Dịch bệnh Covid 19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, trong đó có chuỗi cung ứng nguyên liệu TACN nhập khẩu (giảm nguồn cung, thiếu phương tiện vận chuyển).– Một số quỹ đầu tư lớn trên thế giới chuyển sang kinh doanh nông sản, găm hàng, đẩy giá nông sản lên cao.– Mỹ là một trong những nước có sản lượng ngô lớn đã tăng sản xuất cồn sinh học (Ethanol) từ ngô, làm giảm lượng ngô xuất khẩu. Đặc biệt giá xăng dầu tăng trong tháng 02/2022 vừa qua cũng đẩy giá ngô tăng cao.– Một số nước sản xuất ngô, đậu tương lớn ở khu vực Nam Mỹ (Achentina, Brazil) có sản lượng ngô và đỗ tương giảm do tình hình hạn hán: Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lượng ngô của Achentina niên vụ 2021/2022 dự kiến giảm còn dưới 48 triệu tấn (theo tính toán trước đây là 54 triệu tấn), Brazil dưới 110 triệu tấn (theo tính toán trước đây là 114 triệu tấn).– Cuộc khủng hoảng chính trị giữa Nga và Ukraine (nhà xuất khẩu lúa mỳ lớn nhất và thứ tư trên thế giới) đang tác động lớn đến nguồn cung và giá lương thực toàn cầu, ảnh hưởng trực tiếp đến giá ngô và các mặt hàng nông sản khác trên thị trường thế giới và Việt Nam.Bắt đầu từ cuối tháng 5/2022, giá nguyên liệu TACN theo xu hướng giảm nhẹ; hiện nay, giá một số nguyên liệu chính so với bình quân trong tháng 6 giảm, cụ thể: giá ngô hạt 8.600 đg/kg (giảm 5,5%); khô dầu đậu tương 14.050 đg/kg (giảm 0.4%); DDGS 10.500 đg/kg (tương đương); cám gạo chiết ly 5.550 đg/kg (giảm 0,3%). Dự báo trong thời gian tới giá một số nguyên liệu chính có thể giảm (nhưng không nhiều do gần đây một số nước đang thực hiện chính sách an ninh lương thực trong nước cấm xuất khẩu, điều này cũng ảnh hưởng đến giá ngô, khô đậu tương, lúa mỳ làm thức ăn chăn nuôi).– Giá các loại thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh theo xu hướng tăng (do một số doanh nghiệp chưa tăng giá trong tháng 5, 6/2022 phải sử dụng nguyên liệu thức ăn giá cao nhập trước đó). Cụ thể: TAHH hoàn chỉnh cho gà thịt lông màu 13.000 đg/kg (tăng 0,3%); TAHH hoàn chỉnh cho lợn thịt 13.350 đg/kg (tăng 1,1%) và TAHH hoàn chỉnh cho gà thịt lông trắng 13.800 đg/kg (tăng 1,4%).Tình hình xuất, nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi Nhập khẩuTrong 6 tháng đầu năm 2022, giá trị kim ngạch nhập khẩu chăn nuôi là 1.585,6 triệu USD giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2021 (trong đó, kim ngạch nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa là 718,4 triệu USD, tăng 13%; kim ngạch nhập khẩu các loại thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật là 641,3 triệu USD, giảm 14,7%).Thức ăn gia súc và nguyên liệu thức ăn chăn nuôi: đến hết tháng 6/2022 cả nước đã nhập khẩu 8,5 triệu tấn nguyên liệu TACN (bao gồm cả thủy sản), giá trị tương ứng là 3,7 tỷ USD (giảm khoảng 33,11% về số lượng và 8,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021). Trong đó: Ngô 3,7 triệu tấn (giảm khoảng 52,3% về số lượng và  14,71% về giá trị); khô dầu các loại 2,2 triệu tấn (giảm 39,65% về số lượng và 25,5% về giá trị); DDGS 0,43 triệu tấn (giảm 39,8% về số lượng và 17,3% về giá trị); lúa mỳ 0,73 triệu tấn (giảm 3,7% về số lượng, tăng 24,26% về giá trị).Xuất khẩuTrong 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu lĩnh vực chăn nuôi ước đạt 176 triệu USD, giảm 15,9% so với cùng kỳ năm 2021 (trong tổng kim ngạch xuất khẩu ngành nông nghiệp là 27,88 tỷ USD). Số liệu này chưa tính kim ngạch xuất khẩu nguyên liệu và thức ăn cho gia súc, gia cầm.II. Về tình hình dịch bệnhVề dịch Cúm gia cầmCả nước xảy ra 22 ổ dịch CGC (01 ổ dịch CGC A/H5N6 và 20 ổ dịch CGC A/H5N1) tại 20 huyện của 13 tỉnh, thành phố. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 58.480 con. Hiện nay, cả nước có 02 ổ dịch CGC A/H5N1 tại tỉnh Thái Bình và Bắc Ninh chưa qua 21 ngày. – So với cùng kỳ năm 2021, số ổ dịch giảm 4 lần, số tỉnh có dịch giảm 2,1 lần và số gia cầm tiêu hủy giảm 6,3 lần.Đối với Dịch tả lợn Châu PhiCả nước xảy ra 753 ổ dịch Dịch tả lợn châu Phi tại 225 huyện của 47 tỉnh, thành phố. Tổng số lợn mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 36.516 con. Hiện nay, cả nước có 138 ổ dịch tại 62 huyện của 21 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày; số lợn mắc bệnh là 9.867 con; tổng số lợn chết và tiêu hủy là 10.076 con.  So với cùng kỳ năm 2021, xã có dịch DTLCP giảm 1,5 lần và số lợn bị tiêu hủy giảm gần 3 lần. Cụ thể: Dịch bệnh lở mồm long móngCả nước xảy ra 07 ổ dịch LMLM tại 05 huyện của 04 tỉnh, thành phố. Tổng số gia súc mắc bệnh là 77 con. Hiện nay, cả nước có 04 ổ dịch LMLM tại 02 huyện của tỉnh Đồng Tháp chưa qua 21 ngày, số mắc bệnh là 37 con gia súc, số chết và tiêu hủy là 01 con.Dịch bệnh Viêm da nổi cục – Cả nước xảy ra 206 ổ dịch VDNC của 47 huyện của 13 tỉnh, thành phố. Tổng số gia súc mắc bệnh là 2.116 con, tổng số gia súc tiêu hủy là 394 con. Hiện nay, cả nước có 12 ổ dịch tại 7 tỉnh Sơn La, Quảng Ngãi, Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Đồng Nai và Tiền Giang chưa qua 21 ngày; số gia súc mắc bệnh là 55 con; tổng gia súc chết và tiêu hủy là 12 con.- So với cùng kỳ năm 2021, số ổ dịch giảm 14,3 lần, số gia súc mắc bệnh giảm 68,9 lần và số gia súc tiêu hủy giảm 54,7 lần. Cụ thể:Dịch bệnh Tai xanhTừ đầu năm 2022 đến nay, không có báo cáo ổ dịch Tai xanh mới phát sinh tại các địa phương. (vi) Dịch bệnh Dại – Bệnh Dại trên người: Theo báo cáo của Bộ Y tế, cả nước xảy ra 15 trường hợp người tử vong do bệnh Dại (giảm 18 trường hợp) tại 09 tỉnh, thành (Yên Bái 01, Thanh Hóa 01, Đắk Lắk 01, Đắk Nông 02, Phú Yên 01, Bến Tre 05, Kiên Giang 03, Tây Ninh 01). Tổng số người bị chó, mèo cắn phải đi điều trị dự phòng là 44.822 người (giảm 82% so với cùng kỳ năm 2021).– Bệnh Dại trên chó, mèo: Qua công tác giám sát chủ động từ đầu năm đến nay tại 11 tỉnh (Phú Thọ, Lào Cai, Nghệ An, Quảng Trị, Đắk Lắk, Bình Phước, Cà Mau, Đồng Tháp, Long An, Trà Vinh và Bạc Liêu), đã thực hiện 912 trường hợp điều tra; trong đó, có 115 trường hợp lấy mẫu xét nghiệm vi rút Dại. Kết quả phát hiện 50 trường hợp chó, mèo có dương tính với vi rút Dại (tăng 14 trường hợp) tại 10 tỉnh, bao gồm: Lào Cai (02), Phú Thọ (13), Nghệ An (04), Đắk Lắk (19), Đồng Tháp (03), Long An (03), Bình Phước (02), Trà Vinh (02), Bạc Liêu (01) và Cà Mau (01).Tình hình dịch bệnh khác – Các dịch bệnh thông thường khác trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả lợn cổ điển, Tụ huyết trùng, Phó thương hàn, Đóng dấu lợn, Niu-cát-xơn, Gumboro,… được phát hiện và kiểm soát tốt, không gây thành dịch lớn. Hiện nay, đã có các loại vắc xin để phòng những bệnh này có hiệu quả; nhiều loại vắc xin được sản xuất trong nước.– Ngày 06/6/2022, Tập đoàn Hipra Tây Ban Nha đã tặng Bộ Nông nghiệp và PTNT 50 triệu liều vắc xin Gumboro phòng bệnh cho gia cầm. Trong đó, kế hoạch đợt 1 phân bổ cho địa phương là 20,268 triệu liều.Lũy kế cả nước có 2.329 cơ sở, vùng chăn nuôi tại 50 tỉnh, thành phố được chứng nhận ATDB, bao gồm: 1.052 cơ sở, vùng chăn nuôi gia cầm; 1.131 cơ sở, vùng chăn nuôi lợn và 146 cơ sở, vùng chăn nuôi gia súc khác. Trong 6 tháng đầu năm 2022, Cục Thú y đã thẩm định và cấp Giấy chứng nhận cho 10 vùng (cấp huyện) của TP. Hồ Chí Minh, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tầu và tỉnh Bình Phước. Trích Nhà chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 6/2022

TÌNH HÌNH CHUNGTheo báo cáo của Bộ NN&PTNT, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm nhìn chung diễn ra trong điều kiện thuận lợi do dịch bệnh covid ở trong nước đã được kiểm soát và nhu cầu tiêu dùng hàng nông sản trên thế giới tăng cao. Giá cả các nguyên, nhiên liệu đầu vào chủ yếu phục vụ sản xuất nông lâm thủy sản (như xăng dầu,phân bón, thức ăn chăn nuôi…) tăng cao đã ảnh hưởng tới sản xuất nông lâm thủy sản.Trong 6 tháng, đàn lợn và gia cầm cả nước phát triển ổn định, dịch bệnh lớn không xảy ra nhưng tình hình chăn nuôi vẫn gặp khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tiếp tục tăng. Ước tính tổng đàn lợn của cả nước tính đến cuối tháng 6 tăng 3,8%, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng ước đạt 2116,3 nghìn tấn, tăng 5,7%; đàn gia cầm tăng khoảng 1,2% so với cùng thời điểm năm trước, sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 6 tháng ước đạt 980,7 nghìn tấn, tăng 5,2%.Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2022 ước đạt 34,8 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 176 triệu USD, giảm 15,9% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 56,4 triệu USD, giảm 1,5%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 45,5 triệu USD, giảm 13,5%.Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2022 đạt 301,6 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022 đạt 1,6 tỷ USD, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 718,4 triệu USD, tăng 13%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 641,3 triệu USD, giảm 14,7%.Chăn nuôi trâu, bò: Chăn nuôi trâu, bò trên cả nước trong 6 tháng năm 2022 bị ảnh hưởng từ diễn biến thời tiết khắc nghiệt đến dịch bệnh phức tạp. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê (TCTK), tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Sáu năm 2022 giảm 1,4%, tổng số bò tăng 2,2% so với cùng thời điểm năm 2021.Chăn nuôi lợn: Ngành chăn nuôi đang đứng trước nhiều khó khăn khi giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng. Nguyên nhân của sự tăng giá này chủ yếu đến từ việc giá nhập khẩu của các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng cao. Chi phí đầu vào tăng nhưng giá bán sản phẩm đầu ra lại giảm, điều này đã gây áp lực lớn cho người chăn nuôi. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Sáu năm 2022 tăng 3,8% so với cùng thời điểm năm 2021.Chăn nuôi gia cầm: Đàn gia cầm 6 tháng đầu năm 2022 tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Sáu năm 2022 tăng 1,2% so với cùng thời điểm năm 2021.Theo số liệu tính toán của TCTK, sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại 6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ 2021 cụ thể như sau: Sản lượng thịt trâu ước đạt 62,0 nghìn tấn, tăng 1,8% (trong đó quý II ước đạt 28,2 nghìn tấn, tăng 2,7%); sản lượng thịt bò ước đạt 241,2 nghìn tấn, tăng 4,4% (quý II ước đạt 112,3 nghìn tấn, tăng 5,6%); sản lượng sữa bò tươi 6 tháng ước đạt 617,8 triệu lít, tăng 10,1% (quý II ước đạt 313,3 triệu lít, tăng 9,7%), sản lượng thịt lợn ước đạt 2116,3 nghìn tấn, tăng 5,7% (quý II ước đạt 1075,3 nghìn tấn, tăng 7,1%), sản lượng thịt gia cầm ước đạt 980,7 nghìn tấn, tăng 5,2% (quý II ước đạt 473,4 nghìn tấn, tăng 5,1%); sản lượng trứng gia cầm ước đạt 8,8 tỷ quả, tăng 4,8% (quý II ước đạt 4,2 tỷ quả, tăng 5,1%).Thú y: Theo báo cáo của Cục Thú y, tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm tính đến ngày 22/6 cụ thể như sau:– Dịch cúm gia cầm: Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 21 ổ dịch CGC (01 ổ dịch CGC A/H5N6 và 20 ổ dịch CGC A/H5N1) tại 19 huyện của 12 tỉnh, thành phố. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 58.480 con. Hiện nay, cả nước có 02 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 02 tỉnh Quảng Trị và Kon Tum chưa qua 21 ngày. So với cùng kỳ năm 2021, số ổ dịch giảm 4,1 lần, số tỉnh có dịch giảm 2,2 lần và số gia cầm tiêu hủy giảm 6,2 lần.– Dịch tả lợn châu Phi: Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 738 ổ dịch DTLCP tại 216 huyện của 47 tỉnh, thành phố. Tổng số lợn mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 31.477 con. Hiện nay, cả nước có 119 ổ dịch tại 58 huyện của 24 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày; số lợn mắc bệnh là 7.903 con; tổng số lợn chết và tiêu hủy là 8.017 con. So với cùng kỳ năm 2021, xã có dịch DTLCP giảm 1,6 lần và số lợn bị tiêu hủy giảm 3,23 lần.– Dịch lở mồm long móng (LMLM): Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 03 ổ dịch LMLM tại 03 huyện của 03 tỉnh, thành phố. Tổng số gia súc mắc bệnh là 39 con. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh LMLM. So với cùng kỳ năm 2021, số xã có dịch giảm gần 27 lần, số gia súc mắc bệnh giảm gần 86 lần.– Dịch lợn tai xanh: Từ đầu năm 2022 đến nay, không có báo cáo ổ dịch Tai xanh mới phát sinh tại các địa phương.– Dịch Viêm da nổi cục: Từ đầu năm đến nay, xảy ra 200 ổ dịch VDNC của 43 huyện của 12 tỉnh, thành phố. Tổng số gia súc mắc bệnh là 2.095 con, tổng số gia súc tiêu hủy là 386 con. Hiện nay, cả nước có 11 ổ dịch tại 05 tỉnh Cao Bằng, Quảng Ngãi, Đắk Nông, Khánh Hòa và Bến Tre chưa qua 21 ngày; số gia súc mắc bệnh là 70 con; tổng gia súc chết và tiêu hủy là 11 con. So với cùng kỳ năm 2021, số ổ dịch giảm 14 lần, số gia súc mắc bệnh giảm 64 lần và số gia súc tiêu hủy giảm 52 lần.Thị trường chăn nuôi:Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 6/2022 ở Chicago, Mỹ biến động giảm trong tháng qua với mức giảm 2,1 UScent/lb xuống mức 108,875 UScent/lb. Giá thịt lợn giảm do doanh số xuất khẩu thịt lợn ở mức thấp.Tại thị trường trong nước, trong tháng 5/2022, giá lợn hơi tại các vùng trên cả nước tăng. Giá lợn hơi miền Bắc tăng 1.000 – 2.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 56.000 – 58.000 đồng/kg. Cụ thể, mức giao dịch cao nhất trong khu vực vẫn được ghi nhận tại Hưng Yên và Hà Nội là 58.000 đồng/kg. Ngoại trừ tỉnh Tuyên Quang hiện đang thu mua heo hơi với giá 57.000 đồng/kg, các tỉnh thành còn lại đều giao dịch ở mức 56.000 đồng/kg.Thị trường lợn hơi khu vực miền Trung, Tây Nguyên tăng 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 54.000 – 57.000 đồng/kg. Trong đó, thương lái tại các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Lâm Đồng thu mua heo hơi với giá cao nhất là 57.000 đồng/kg. Thấp hơn một giá ở mức 56.000 đồng/kg gồm có các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Khánh Hòa, Đắk Lắk và Bình Thuận. Các định phương còn lại ở mức 55.000 đồng/kg.Thị trường lợn hơi miền Nam ghi nhận giá thu mua biến động tăng từ 2.000 đồng/kg tại nhiều tỉnh thành, dao động trong khoảng 55.000 – 60.000 đồng/kg. Trong đó, giá lợn hơi tại Vũng Tàu và Cần Thơ đang ở mức 55.000 đồng/kg, thấp nhất khu vực. Các tỉnh thành còn lại thu mua lợn hơi trong khoảng 56.000 – 60.000 đồng/kg.Giá thu mua gà tại trại biến động trái chiều tại các vùng miền trong tháng qua. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc, miền Trung và miền Nam tăng 6.000 đồng/kg lên mức 58.000 – 59.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Bắc, miền Trung và miền Nam ổn định ở mức 28.000 – 35.000 đồng/kg. Giá trứng gà miền Bắc, miền Trung và miền Nam tăng 100 đồng/quả lên mức 2.100 – 2.700 đồng/quả. Giá trứng tăng do chi phí vận chuyển tăng, giá thức ăn chăn nuôi tăng, người nuôi giảm đàn, nguồn cung giảm.THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2022 ước đạt 34,8 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 176 triệu USD, giảm 15,9% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 56,4 triệu USD, giảm 1,5%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 45,5 triệu USD, giảm 13,5%.THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2022 đạt 301,6 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022 đạt 1,6 tỷ USD, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 718,4 triệu USD, tăng 13%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 641,3 triệu USD, giảm 14,7%. Nguồn tin: http://channuoivietnam.com

Nhập khẩu thịt heo giảm gần 1/2 trong 6 tháng

Trong 6 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu 45,18 nghìn tấn thịt heo tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh, giảm 44,1% về lượng và giảm 48,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, cho biết 6 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu 289,37 nghìn tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 648,51 triệu USD, giảm 23,8% về lượng và giảm 13,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.Trong 6 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt từ 47 thị trường trên thế giới. Ấn Độ là thị trường cung cấp thịt và các sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam.Trong đó, Việt Nam nhập khẩu 45,18 nghìn tấn thịt heo tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh, trị giá 95,92 triệu USD, giảm 44,1% về lượng và giảm 48,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021; giá nhập khẩu trung bình đạt 2.123 USD/tấn, giảm 8,3% so với cùng kỳ năm 2021. Trong 6 tháng đầu năm 2022, thịt heo tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh nhập khẩu về Việt Nam giảm 44,1% về lượng và giảm 48,7% về trị giá. (Ảnh minh họa)  Thịt heo tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh được nhập khẩu từ 22 thị trường, trong đó chủ yếu được nhập khẩu từ Brazil chiếm 35,1%; Nga chiếm 25,7% và Đức chiếm 16,6%…Ở chiều ngược lại, thịt heo tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh của Việt Nam được xuất khẩu 5,13 nghìn tấn, trị giá 22,64 triệu USD, tăng 127,2% về lượng và tăng 26,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021 và chủ yếu xuất sang các thị trường Hồng Kông, Thái Lan và Lào.Theo Tổng cục Thống kê, ngành chăn nuôi vẫn đang phải đối mặt với khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao.Trong khi đó, Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) nhận định, vấn đề toàn cầu hóa về thị trường, việc hội nhập sâu rộng của nước ta với thế giới thông qua 15 hiệp định thương mại tư do thế hệ mới đã ký và 02 hiệp định đang đàm phán. Trong đó, khu vực các nước tham gia các Hiệp định CPTTP và EVFTA đều là những nước có không gian chăn nuôi lớn, có lợi thế hơn Việt Nam, sẽ càng gia tăng áp lực về thị trường cho các sản phẩm chăn nuôi trong nước. Cạnh tranh ngày càng lớn về giá, về chất lượng, đa dạng sản phẩm trước bối cảnh sản phẩm chăn nuôi của Hoa Kỳ và châu Âu như thịt gà, thịt heo xuất vào thị trường Việt Nam.Năm 2022, ngành chăn nuôi đặt mục tiêu tăng trưởng giá trị sản xuất chăn nuôi bình quân năm 2022 đạt khoảng 5,0- 5,5% so với năm 2021. Sản lượng thịt các loại đạt khoảng 6,95 triệu tấn, tăng 4% so với năm 2021 (trong đó sản lượng thịt heo hơi đạt trên 4,2 triệu tấn và sản lượng thịt gia cầm đạt trên 1,9 triệu tấn).Hiện cả nước đang có 65 nhà máy, cơ sở giết mổ chế biến thịt bao gồm heo, gia cầm, trâu bò. Chế biến theo quy mô công nghiệp với công suất chế biến 1,1 triệu tấn/năm. Nhóm sản phẩm chế biến sâu chiếm 2-5%, còn đa phần chế biến ở cấp độ sơ chế, thịt đông lạnh, thịt mát.Theo kế hoạch Đề án phát triển cơ sở chế biến, giết mổ theo quy mô công nghiệp thì sản lượng chế biến sẽ nâng lên 25% vào năm 2025, lên 35% vào năm 2030. Đề án đã được xây dựng và trình lên Thủ tướng Chính phủ.  Thái Bình Nguồn: Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp

Ngày 29/8/2022 – Giá cả chăn nuôi

[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo thông tin từ Chi cục Chăn nuôi Thú y tỉnh Bình Dương cung cấp, giá các sản phẩm chăn nuôi như heo hơi, vịt thịt, gà trắng, vịt thịt, gà lông màu, trứng gà như sau:  Giá sản phẩm của Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P Việt Nam – Giá heo hơi loại 1: 65.000 đồng/kg; – Giá heo mảnh: 80.000 đồng/kg; – Giá đầu lòng heo: 39.000 đồng/kg; – Giá gà trắng lưu hành nội bộ Công ty: 34.000 đồng/kg; – Giá gà lông màu: 41.000 đồng/kg; – Giá vịt thịt của Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P Việt Nam trong tuần xuất bán với giá 38.000 đồng/kg; Giá sản phẩm tại các Công ty và các cơ sở chăn nuôi tư nhân khác – Giá heo thịt loại 1 tại Công ty CJ Vina, Japfa và Làng Sen Việt: 63.000 – 64.000 đồng/kg; – Giá heo thịt loại 1 tại các trại chăn nuôi heo tư nhân: 61.000 – 62.000 đồng/kg; – Giá gà trắng của Công ty cổ phần 3F Việt: 36.000 đồng/kg; – Giá gà trắng của Công ty TNHH Emivest: 33.000 đồng/kg; – Giá gà lông màu tại các cơ sở chăn nuôi tư nhân: 40.000 đồng/kg; – Giá vịt thịt: 40.000 đồng/kg; – Giá vịt Cherry 1 ngày tuổi: 19.000 đồng/con; – Giá vịt Grimaud 1 ngày tuổi: 17.000 đồng/con. Giá trứng gia cầm tại các vựa trứng gia cầm – Giá trứng gà loại 1(size 21kg): 3.200 đồng/quả; – Giá trứng vịt loại 1(size 23 kg): 2.900 đồng/quả; – Giá trứng cút: 500 đồng/quả./. Nguồn Nhà chăn nuôi

Giá gà tăng mạnh

Theo báo cáo của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, giá gà thịt lông màu ngắn ngày ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam đang ở mức khoảng 50.000 đồng/kg, tăng 6.000 – 8.000 đồng/kg. Đối với thịt gà ta thả vườn hiện nay, giá bán khá cao, từ 90.000 – 110.000 đồng/kg, tùy từng giống gà. Các hộ chăn nuôi cho biết, dù giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, nhưng với giá bán các loại gà như vậy, bà con vẫn có lãi.Chăn nuôi gà là nghề đã gắn bó với gia đình ông Hiếu (xã Ngọc Lương, Yên Thủy, Hòa Bình) từ nhiều năm nay. Tại Hòa Bình, gia đình ông và các hộ khác chủ yếu nuôi gà bản địa là giống gà Lạc Thủy.Ông Hiếu cho biết, trước Tết, giá gà xuất bán ra khoảng 70.000 đồng/kg, từ sau Tết, giá gà đã tăng khoảng 30 – 40%. Đối với thịt gà ta thả vườn hiện nay, giá bán khá cao, từ 90.000 – 110.000 đồng/kg, tùy từng giống gà. (Ảnh: TTXVN)  “Một con gà từ giống đến khi thành phẩm chúng tôi tính vào khoảng 150.000 – 160.000 đồng/kg. Gà được 2 – 2,2 kg mà giá 110.000 thì chúng tôi được hơn 200.000. Giá cám tăng cao nhưng với giá gà bây giờ thì người chăn nuôi vẫn có lãi”, ông Phạm Văn Hiếu, xã Ngọc Lương, Yên Thủy, Hòa Bình, chia sẻ.Không chỉ gà lông màu, mà giá gà trắng cũng tăng mạnh. Các trang trại ở Bắc Giang cho biết, thời điểm dịch COVID-19 bùng phát, gà trắng giá giảm mạnh mà không tiêu thụ được, nhưng nay giá cũng tăng đến 60 – 70%.“Thời điểm COVID-19, giá gà xuất ra chỉ 15.000 – 16.000 đồng/kg, hiện giá từ 38.500 – 40.500 đồng/kg. Năm nay, người chăn nuôi chúng tôi đã có thu nhập”, ông Nguyễn Văn Tùng, huyện Tân Yên, Bắc Giang, cho biết.“Giá gà tăng hơn, người chăn nuôi rất phấn khởi. Với giá cám tăng, nhưng giá gà vẫn tăng nên mỗi lứa gà so với thời điểm COVID-19, tôi vẫn lãi 50 – 60 triệu. Chia bình quân mỗi tháng, tôi được 30 triệu đồng/tháng”, ông Tạ Quang Đức, huyện Tân Yên, Bắc Giang, cho hay.Ngoài thị trường, tại các chợ dân sinh, gà lông màu đang có giá 130.000 – 150.000 đồng/kg. Giá gà trắng có giá từ 60.000 – 70.000 đồng/kg. Các tiểu thương cho biết, nguồn cung đang bắt đầu dồi dào, không còn khan hiếm như mấy tháng trước.Chủ động nguồn cung gia cầm từ nay đến cuối nămHiện nay, giá gà giống cũng đang tăng từ 4.000 – 5.000 đồng/con. Điều này chứng tỏ nông dân đang tăng đàn mạnh nên con giống khan hiếm, đẩy giá bán tăng. Chu kỳ sinh trưởng của con gà khoảng 4 – 5 tháng. Do vậy từ nay đến cuối năm, nguồn cung gà chắc chắn là sẽ dồi dào.Bà Thịnh (xã An Bình, Lạc Thủy, Hòa Bình) mới bắt một đàn gà 6 ngày tuổi về để sẵn sàng thay thế cho đàn gà thịt chuẩn bị đến lứa xuất bán.Chăn nuôi gà đã nhiều năm, nhưng chưa khi nào bà Thịnh lại thấy đầu ra thuận lợi như lúc này. Với 3 chuồng nuôi, từ đầu năm tới nay, lúc nào gia đình bà cũng duy trì tổng đàn là 4.000 con gà.“Đợt này chúng tôi nuôi gà rất thuận lợi. Cách đây 1 tháng, tôi xuất bán được một bầy. Cách đây 1 tuần, đàn còn lại là 1.000, tôi bán 500 con. Còn 500 con nữa tôi sắp bán nốt. Xuất hết chỗ gà này là tôi vào 4.000 con nữa”, bà Vũ Thị Thịnh chia sẻ.Không chỉ vào đàn phục vụ nhu cầu thực phẩm hàng ngày, mà các trang trại còn chủ động tính xa hơn. Để đưa ra thị trường những con gà ngon, chất lượng, thời gian nuôi cho đến lúc xuất chuồng khoảng 5 tháng. Thời điểm này, các trang trại bắt đầu vào đàn mới để phục vụ dịp lễ Tết cuối năm.“Khi mọi thứ trở lại bình thường, sức tiêu thụ cao hơn, nguồn cung không đủ cầu. Người sản xuất đã có lãi duy trì và mở rộng đàn. Trang trại của tôi lúc nào cũng vào 1.000 và xuất ra 1.000. Dịp Tết này tôi có 6 trại vệ tinh và tính vào 6.000 con gà”, bà Nguyễn Thu Thoan, chủ trang trại gà ri vi sinh, Sóc Sơn, Hà Nội, cho biết.Giá gà tăng mạnh nên người dân đang có xu hướng tái đàn. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khuyến cáo bà con cần chú ý thực hiện các biện pháp chăn nuôi và khâu chọn giống.Theo số liệu từ Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, do dịch bệnh được kiểm soát tốt nên tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm này tăng 4 – 5 % so với cùng thời điểm năm 2021. Tổng đàn gia cầm của cả nước hiện có khoảng 550 triệu con, trong đó gà khoảng 440 triệu con. Giá gà tăng mạnh các hộ chăn nuôi đang có xu hướng tái đàn là tín hiệu tốt cho ngành chăn nuôi. Giá gà tăng mạnh nên người dân đang có xu hướng tái đàn. (Ảnh: TTXVN)  Những người chăn nuôi lâu năm nhận định, từ nay đến cuối năm, khi nguồn cung gà tăng lên, giá gà vẫn có thể duy trì ở mức cao. Thứ nhất, hiện nay các hoạt động kinh doanh dịch vụ đang phục hồi mạnh mẽ sẽ làm tăng nhu cầu về thực phẩm. Đặc biệt, càng gần đến cuối năm, nhu cầu này càng tăng mạnh, phục vụ dịp lễ Tết.Ngoài ra, sức ép thực phẩm nhập khẩu sẽ giảm mạnh do giá lương thực, thực phẩm thế giới đang tăng cao. Điều này sẽ khiến giá lương thực, thực phẩm Việt Nam tăng và giữ ở mức cao trong năm nay và những tháng đầu năm 2023. Cùng với đó, hiện nhu cầu sử dụng thịt gà của người tiêu dùng tăng, với tốc độ tăng khoảng 8%/năm.Với những yếu tố trên, giai đoạn từ nay đến cuối năm sẽ có nhiều cơ hội cho những người chăn nuôi gia cầm mở rộng thị trường tiêu thụ. Ban Thời sự, VTV

NGÀY 27/08/2022 – GIÁ HEO HƠI HÔM NAY

Giá heo hơi hôm nay 27/8/2022 tại thị trường ba miền đang duy trì ổn định. Tiếp tục thu mua heo hơi quanh ngưỡng 62.000 - 70.000 đ/kg. Giá heo hơi miền Bắc hôm nayHiện tại, Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và TP Hà Nội tiếp tục thu mua trong khoảng 68.000 - 70.000 đ/kg.Nam Định, Ninh Bình và Thái Nguyên đang giao dịch lần lượt với giá 66.000 và 67.000 đ/kg.Thương lái ba tỉnh Yên Bái, Lào Cai và Hà Nam hiện giao dịch ở mốc thấp nhất khu vực là 65.000 đồng.Như vậy, giá heo hơi hôm nay 27/8/2022 tại thị trường miền Bắc đang giao dịch quanh mức 65.000 - 70.000 đ/kg.Giá heo hơi miền Trung và Tây Nguyên hôm nayGiá heo hơi hôm nay 27/8 tại miền Trung và Tây Nguyên cũng đi ngang so với hôm qua.Theo đó, Ninh Thuận và Bình Thuận chứng kiến mốc giá cao nhất khu vực là 70.000 đ/kg.Hiện tại, các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định và Khánh Hòa duy trì thu mua ở mức 67.000 đ/kg.Mốc giao dịch thấp nhất khu vực là 63.000 đ/kg, có mặt tại tỉnh Đắk Lắk.Như vậy, giá heo hơi hôm nay 27/8/2022 ở miền Trung thu mua quanh mức 63.000 - 70.000 đ/kg.Giá heo hơi miền Nam hôm nayTại miền Nam, giá heo hơi hôm nay 27/8 không có biến động mới so với hôm qua.Cụ thể, Hậu Giang tiếp tục thu mua heo hơi với giá thấp nhất khu vực, ở mức 62.000 đ/kg.Mức giá cao nhất khu vực là 70.000 đ/kg, ghi nhận tại hai tỉnh Tây Ninh và Cà Mau.Các tỉnh còn lại giao dịch ổn định trong khoảng từ 63.000 - 69.000 đ/kg.Như vậy, giá heo hơi hôm nay 27/8/2022 toàn miền Nam tiếp tục giao dịch quanh ngưỡng 62.000 - 70.000 đ/kg.

NGÀY 30/08/2022 – GIÁ HEO HƠI HÔM NAY

Giá heo hơi hôm nay 30/8/2022 tại thị trường ba miền đồng loạt đi ngang. Hiện tại, thị trường heo hơi 3 miền đang thu mua ở mức 62.000 - 70.000 đ/kg. Giá heo hơi miền Bắc hôm nayGiá heo hơi hôm nay 30/8 tại thị trường miền Bắc tiếp tục đi ngang so với hôm qua.Cụ thể, mức giá cao nhất khu vực tiếp tục được ghi nhận tại Hưng Yên và Thái Bình là 70.000 đ/kg.Hiện đang giao dịch heo hơi trong khoảng 67.000 - 68.000 đ/kg gồm có các tỉnh thành như Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội và Tuyên Quang.Ngoại trừ Nam Định và Ninh Bình hiện đang neo tại mức 66.000 đ/kg, thương lái tại các tỉnh thành còn lại thu mua heo hơi ổn định với giá 65.000 đ/kg.Như vậy, giá heo hơi hôm nay 30/8/2022 tại thị trường miền Bắc đang giao dịch quanh mức 65.000 - 70.000 đ/kg.Giá heo hơi miền Trung và Tây Nguyên hôm nayGiá heo hơi hôm nay 30/8 tại miền Trung và Tây Nguyên cũng không có biến động mới so với hôm qua.Theo đó, Đắk Lắk tiếp tục giao dịch heo hơi với giá thấp nhất khu vực là 63.000 đ/kg.Nhỉnh hơn một giá ở mức 64.000 đ/kg gồm có Quảng Bình và Lâm Đồng.70.000 đ/kg là ngưỡng cao nhất được chứng kiến tại Ninh Thuận và Bình Thuận.Các địa phương còn lại giữ nguyên mức giá ổn định trong khoảng 66.000 - 67.000 đ/kg.Như vậy, giá heo hơi hôm nay 30/8/2022 ở miền Trung thu mua quanh mức 63.000 - 70.000 đ/kg.Giá heo hơi miền Nam hôm nayTại miền Nam, giá heo hơi hôm nay 30/8 cũng đang duy trì ổn định so với hôm qua.Trong đó, hai tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang tiếp tục thu mua heo hơi với giá tương ứng là 62.000 đ/kg và 63.000 đ/kg.Thương lái tại Tây Ninh và Cà Mau vẫn duy trì giao dịch ở mốc 70.000 đ/kg, cao nhất khu vực.Mức giá trung bình được ghi nhận tại các địa phương còn lại là 65.000 đ/kg.Như vậy, giá heo hơi hôm nay 30/8/2022 toàn miền Nam tiếp tục giao dịch quanh ngưỡng 62.000 - 70.000 đ/kg.

Giá thức ăn chăn nuôi tăng mạnh: Gỡ khó bằng tìm nguyên liệu thay thế

Trong khi giá thức ăn chăn nuôi dự báo sẽ tiếp tục tăng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang đẩy mạnh các giải pháp thức ăn thay thế từ nguyên liệu trong nước để gỡ khó cho người chăn nuôi.Xung đột Nga và Ukraine làm giảm nguồn cung, đẩy giá nhiều loại nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng cao và dự báo còn tiếp tục tăng đến hết năm nay. Kéo theo đó, giá thức ăn chăn nuôi hỗn hợp đã tăng từ 25-40% và ảnh hưởng rất lớn đến phát triển chăn nuôi trong thời gian tới.Đây là thông tin được đưa ra tại hội nghị trực tuyến bàn giải pháp thúc đẩy phát triển chăn nuôi lợn và tăng cường công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức ngày 18/3.Giá nguyên liệu tăng gần 50%Từ năm 2015-2020, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước tương đối ổn định, thậm chí có thời điểm giảm dần. Thế nhưng bắt đầu từ năm 2020, do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Đặc biệt, xung đột Nga và Ukraine gần đây đã đẩy giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng mạnh.So với cùng kỳ (tháng 3/2021), giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tháng 3/2022 đều tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm ngũ cốc. Mức tăng cao nhất là giá lúa mì đã lên tới 9.850 đồng/kg, tăng tới 49,5%; khô dầu đậu tương là 16.500 đồng/kg, tăng 33,4%; ngô hạt giá là 10.200 đồng/kg, tăng 29,3%; bã ngô giá 10.300 đồng/kg tăng 23,1%.Theo ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), dự kiến giá nguyên liệu vẫn tăng đến hết năm 2022. Thực tế, giá chào hàng nguyên liệu nhập khẩu về Việt Nam giao hàng sau tháng 8/2022 đã tăng, giá ngô tăng lên 11.000 đồng/kg và giá khô gầu đậu tương tăng lên 17.000 đồng/kg.Nguyên nhân khiến các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng giá chủ yếu do ảnh hưởng của thời tiết bất lợi từ các khu vực trồng chính trên thế giới tại các nước Nam Mỹ đồng thời cuộc khủng hoảng chính trị giữa Nga và Ukraine (nhà xuất khẩu lúa mỳ lớn nhất và thứ tư trên thế giới) đang tác động lớn đến giá ngô và lúa mỳ trên thị trường thế giới và Việt Nam.Việt Nam nhập khẩu từ Nga và Ukraine nhiều nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp trong nước như lúa mỳ (trong điều kiện bình thường có thể đến 1 triệu tấn, chiếm khoảng 20% tổng nhập khẩu lúa mỳ), ngô (3% tổng nhập khẩu ngô)... để làm thức ăn chăn nuôi.Ông Tống Xuân Chinh cho biết do giá nguyên liệu tăng mạnh nên giá thức ăn chăn nuôi công nghiệp trong nước cũng tăng theo. Giá thức ăn cho lợn thịt xuất chuồng đã tăng 18,4% lên 12.500 đồng/kg, thức ăn cho gà thị lông màu tăng 24,5% lên 13.400 đồng/kg, thức ăn cho gà thịt lông trắng tăng 29,8% lên 14.100 đồng/kg.Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển chăn nuôi Phùng Đức Tiến nhận định giá thức ăn chăn nuôi tăng tương đối cao trong hai năm gần đây. Trước đây giá ngô chỉ khoảng 4.700 đồng/kg thì đến nay đã tăng lên trên dưới 10.000 đồng/kg, đỗ tương trước đây chỉ hơn 8.000 đồng/kg đến giờ đã tăng lên 16.300 đồng/kg… kéo theo đó giá thức ăn chăn nuôi hỗn hợp đã tăng từ 25-40%, điều này  ảnh hưởng rất lớn đến phát triển chăn nuôi trong thời gian tới."Hạ nhiệt" bằng nguyên liệu trong nướcTheo ông Tống Xuân Chinh, lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, do đó chịu ảnh hưởng trực tiếp từ biến động giá nguyên liệu trên thế giới. Sở dĩ nguồn nguyên liệu còn phụ thuộc là do năng lực sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước còn hạn chế, công nghệ sản xuất và quản lý thức ăn chăn nuôi còn thiếu đồng bộ, nhiều cơ sở sản xuất quy mô nhỏ lẻ, thủ công.Thêm khó cho doanh nghiệp chăn nuôi từ căng thẳng Nga - UkraineDẫn chứng ví dụ về năng lực sản xuất nguyên liệu trong nước còn hạn chế, ông Tống Xuân Chinh cho biết diện tích trồng ngô làm nguyên liệu phục vụ sản xuất thức ăn chăn nuôi của Việt Nam đến nay chỉ đạt 942.00 hecta và thậm chí đang có xu hướng giảm đi.“Chẳng hạn như tại Sơn La, trước kia đây là địa phương có diện tích trồng ngô số 1 tại miền Bắc nhưng hiện nay do có ưu thế về xuất khẩu hoa quả ra nước ngoài, địa phương này đã chuyển dịch rất nhanh từ diện tích trồng ngô sang trồng hoa quả khiến diện tích trồng ngô đã giảm đi đáng kể,” ông Chinh cho hay.Không chỉ diện tích trồng ít mà năng suất ngô cũng còn rất thấp. Theo ông Chinh, hiện nay sản phẩm ngô của Việt Nam rất khó cạnh tranh với những sản phẩm nhập khẩu bởi lẽ Mỹ và Brasil, Irasel đều có năng suất trồng ngô cao gấp 2-4 lần so với Việt Nam. Điều này đòi hỏi cần phải hình thành vùng nguyên liệu để tập trung công nghệ cao, tăng năng suất thì mới có thể giảm bớt phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên liệu. Giá thức ăn chiếm tới 65-70% giá thành trong chăn nuôi. (Ảnh minh họa: Vũ Sinh/TTXVN)Trong khi việc nâng cao năng lực sản xuất nguyên liệu trong nước để “hạ nhiệt” giá thành thức ăn chăn nuôi sẽ không phải là câu chuyện ngày một ngày hai mà cần có thời gian, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang đẩy mạnh triển khai giải pháp tìm thức ăn thay thế để gỡ khó cho người chăn nuôi.Đại diện Viện Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết việc sử dụng các nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương như cám dừa, cám gạo… trong mô hình chăn nuôi lợn tại Tiền Giang, Lào Cai đã giúp giảm giá thành sản phẩm khoảng 3.000-5.000 đồng/kg.Mô hình chăn nuôi lợn bản địa áp dụng các công thức phối trộn thức ăn từ nguyên liệu tự có tại Nghệ An, Thừa Thiên Huế… cũng đã giúp giảm chi phí thức ăn từ 10-15%/nái/năm so với việc mua thức ăn hỗn hợp.Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, giá thức ăn chiếm tới 65-70% giá thành trong chăn nuôi. Do đó, trong bối cảnh giá nguyên liệu nhập khẩu tăng cao thì việc ứng dụng công nghệ xây dựng khẩu thức ăn chăn nuôi từ nguyên liệu trong nước sẽ là giải pháp giúp hạ giá thành sản phẩm thức ăn chăn nuôi.Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết sau nhiều năm, Viện Chăn nuôi cùng với các đơn vị đã đánh giá giá trị dinh dưỡng các nguyên liệu của địa phương và đưa ra công thức thức ăn, phân tích giá trị thức ăn hỗn hợp với đầy đủ các tiêu chí protein, năng lượng, canxi, phốt pho, vitamin, axit amin… Kết quả nghiên cứu được ứng dụng trên nhiều đối tượng như chăn nuôi lợn, chăn nuôi gia cầm…“Các công thức từ nguyên liệu trong nước đã được nghiên cứu và nghiệm thu. Với cách làm này, giá thức ăn chăn nuôi giảm từ 300-1.000 đồng/kg. Với mức giảm 1.000 đồng/kg, khi mua thức ăn 10.000 đồng/kg sẽ giảm được 10% và tương ứng giá thành chăn nuôi sẽ giảm được 5-7%,” Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho hay.Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đã yêu cầu Cục Chăn nuôi, các địa phương cần nhân rộng hơn nữa các công thức xây dựng khẩu phần ăn từ nguyên liệu trong nước trong thời gian tới để gỡ khó cho người chăn nuôi vượt qua giai đoạn giá nguyên liệu nhập khẩu sẽ vẫn tiếp tục có xu hướng tăng cao./.Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến nói về nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi.

Cải cách kiểm tra chuyên ngành tại cửa khẩu: Đảm bảo tính kế thừa và sự gắn kết giữa các bộ, ngàn

Bộ NN&PTNT đã có văn bản góp ý dự thảo Nghị định quy định về kiểm tra nhà nước về chất lượng và kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu.Kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu.  Trong đó, đồng tình với chủ trương tiếp tục cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ với những bước đi thận trọng, áp dụng trước với những mặt hàng được xác định cụ thể tại Quyết định 38/QĐ-TTg và đảm bảo tính kế thừa kết quả từ công tác cải cách do các bộ, ngành đã triển khai theo chỉ đạo của Chính phủ.Đảm bảo thực hiện quản lý theo chuỗiTheo Bộ NN&PTNT, thời gian qua, Bộ này đã tích cực đóng góp ý kiến đối với dự thảo Nghị định quy định về kiểm tra nhà nước về chất lượng và kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu và đồng thuận với Tổng cục Hải quan về một số nội dung nêu trong dự thảo nghị định. Đồng thời, cũng bổ sung, góp ý một số vấn đề nhằm đảm bảo tính kế thừa kết quả từ công tác cải cách.Trước tiên, đối với phạm vi điều chỉnh của dự thảo, Bộ NN&PTNT đồng tình với chủ trương tiếp tục cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ với những bước đi thận trọng, áp dụng trước với những mặt hàng được xác định cụ thể tại phạm vi của Đề án cải cách mô hình kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu ban hành kèm theo Quyết định 38/QĐ-TTg ngày 12/01/2021 (Đề án 38). Trong đó, đã đảm bảo tính kế thừa kết quả từ công tác cải cách do các bộ, ngành đã triển khai theo Nghị quyết 19/NQ-CP, Nghị quyết 02/NQ-CP và các chỉ đạo của Chính phủ trong thời gian qua, đặc biệt chú trọng đến các quy trình nghiệp vụ đã triển khai áp dụng trên Hệ thống một cửa quốc gia của các tổ chức, cá nhân có liên quan.Về trình tự, thủ tục thực hiện kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa, Bộ NN&PTNT đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung báo cáo đánh giá tác động về việc thực hiện quản lý theo chuỗi (một sản phẩm, hàng hóa một cơ quan quản lý và chịu trách nhiệm) trong hồ sơ ban hành nghị định; cơ chế chia sẻ thông tin đối với hàng hóa nhập khẩu để kịp thời phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành sản xuất trong nước; cơ quan chịu trách nhiệm giải quyết vướng mắc, khiếu nại đối với những lô hàng không đạt yêu cầu.Áp dụng các phương thức kiểm tra phù hợpBộ NN&PTNT cũng góp ý về phương thức kiểm tra và áp dụng các phương thức kiểm tra. Theo đó, Bộ này đồng tình với quan điểm áp dụng đánh giá rủi ro và quản lý chất lượng hàng hóa nhập khẩu theo hàng hóa. Tuy nhiên, Bộ NN&PTNT cũng lưu ý, mỗi loại hàng hóa đều có mức độ rủi ro khác nhau, tiêu chí đánh giá rủi ro khác nhau. Vì vậy việc phân loại, lựa chọn phương thức kiểm tra phải dựa vào đặc tính kỹ thuật của hàng hóa, đặc thù quản lý và yêu cầu quản lý thực tế của mỗi mặt hàng, để có mức độ phân loại rủi ro và chọn phương thức kiểm tra phù hợp.Trước đó, Bộ NN&PTNT có một số góp ý về việc thay đổi cơ quan đầu mối kiểm tra chuyên ngành, thay đổi trình tự, thủ tục kiểm tra phải được thể hiện ở văn bản quy phạm pháp luật. Trong khi các luật chuyên ngành như: Luật Thú y, Luật Bảo vệ thực vật, Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi, Luật Thủy sản, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật An toàn thực phẩm… lại chưa quy định về nội dung này. Do vậy, trong giai đoạn 1, cần thiết phải sửa các luật có liên quan thì mới thực hiện được rốt ráo các nội dung đề án đã xây dựng.Để quá trình triển khai nghị định, đề án được thuận lợi, sớm đi vào thực tế, đại diện Bộ NN&PTNT khẳng định sẽ phối hợp chặt chẽ với cơ quan hải quan để nâng cao năng lực kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm cho cán bộ hải quan, khi thực hiện thí điểm một đầu mối về kiểm tra chuyên ngành hàng hóa nhập khẩu…Nhận định tầm quan trọng của việc phối hợp giữa các bộ, ngành trong quá trình góp ý dự thảo nghị định, chia sẻ với phóng viên TBTCVN, chuyên gia kinh tế, PGS. TS Đinh Trọng Thịnh cho rằng, bước xây dựng dự thảo nghị định cũng cần làm cẩn trọng, tỉ mỉ, thì sau này các đối tượng dễ “hấp thụ”, dễ triển khai, thực thi; đồng thời đỡ mất công sức thời gian giải thích, điều chỉnh. Điều quan trọng là sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan (Bộ Tài chính với các bộ quản lý chuyên ngành và với tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản). Nếu phối hợp tốt, gắn kết thường xuyên, hàng ngày thì thông tin từ các cơ quan quản lý chuyên ngành đến cơ quan hải quan sẽ thông suốt, là trợ lực giúp việc thực hiện hoạt động kiểm tra chuyên ngành đạt hiệu quả cao; không để lọt các sản phẩm hàng hóa kém chất lượng vào thị trường. Vì vậy, rất cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên ngành khi xử lý các mặt hàng này. Nguồn: Thời báo Tài chính Việt Nam

Môi trường chăn nuôi

TIÊU DIỆT KÍ SINH TRÙNG TRÊN HEO

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Thiệt hại của kí sinh trùng gây...

Tiềm năng, lợi thế chăn nuôi bò thịt, bò sữa của Thủ đô

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Là Thủ đô song Hà Nội vẫn...

DINH DƯỠNG CHO NÁI HẬU BỊ THỜI KÌ MANG THAI

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Sự phát triển của heo con ở...

QUẢN LÝ DINH DƯỠNG TRƯỚC VÀ SAU CAI SỮA ĐỂ GIẢM CHI PHÍ CÁM

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Vấn đề của những nước chăn nuôi...

NHU CẦU VITAMIN CỦA GÀ

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Để nuôi gia cầm thành công, người...

NHU CẦU KHOÁNG CỦA GÀ

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Để nuôi gia cầm thành công, người...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO SULPHONAMID

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
1. Triệu chứng Gà trúng độc Sulphonamid...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO FURAZOLIDON

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
1. Triệu chứng Khi dùng Furazolidon phòng...

BỆNH NGỘ ĐỘC THỨC ĂN DO ĐỘC TỐ AFLATOXIN

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO MUỐI

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Muối là một trong những thành phần...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO SELENIUM (Se)

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Selen là một trong những nguyên tố...

BỆNH DO TRÚNG ĐỘC KHÍ NH3

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Khí NH3  được sinh ra từ chất...

BỆNH TRÚNG ĐỘC KHÍ CO

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Lượng khí CO được sinh ra do...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO FORMALDEHYDE

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Formaldehyde hay còn gọi là formon. Dung...

BỆNH SƯNG GAN THẬN TRÊN GÀ

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh sưng gan và thận thường xảy...

BỆNH HỘI CHỨNG XUẤT HUYẾT VÀ PHÌ GAN

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh FLHS là biểu hiện một quá...

BỆNH DO SUY DINH DƯỠNG TRÊN GIA CẦM

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu hụt dinh dưỡng gây rối...

BỆNH THIẾU VITAMIN A

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Đặc điểm của bệnh thiếu vitamin A...

BỆNH THIẾU VITAMIN D

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin D trong đàn gà...

BỆNH THIẾU VITAMIN E

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin E thường hay gặp...

BỆNH THIẾU VITAMIN K

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin K ở gà có...

BỆNH THIẾU VITAMIN B1

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin B1 ở gà thể...

BỆNH THIẾU VITAMIN B2

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin B2 có đặc điểm...

BỆNH THIẾU VITAMIN B5

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu axit Pantothenic ở gia cầm...

BỆNH THIẾU AXIT NICOTINIC – VITAMIN B3

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu axit Pantothenic ở gia cầm...

BỆNH THIẾU PYRIDOXIN (VITAMIN B6)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đặc điểm của bệnh này là giảm...

BỆNH THIẾU BIOTIN (VITAMIN H)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà mắc bệnh thiếu Biotin có đặc...

BỆNH THIẾU AXIT FOLIC

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Axit folic hay còn gọi là vitamin...

BỆNH THIẾU CHOLINE

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Chất Choline còn được gọi là vitamin...

BỆNH THIẾU VITAMIN B12

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Vitamin B12 cần thiết cho sự phát...

BỆNH THIẾU SELENIUM

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu Selenium ở gà có đặc...

BỆNH THIẾU CANXI VÀ PHOTPHO (Ca, P)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Canxi và photpho là 2 nguyên liệu...

BỆNH THIẾU MANGAN (Mn)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Mangan được hấp thu qua đường tiêu...

BỆNH THIẾU MUỐI (NaCl)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
NaCl là một loại muối bao gồm...

BỆNH THIẾU KẼM (Zn)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Kẽm là một nguyên tố vi lượng...

BỆNH THIẾU (Mg)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Mg trong cơ thể động vật chiếm...

BỆNH DO ĐÓI TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh đói ở gà thường thể hiện...

BỆNH DO MẤT NƯỚC TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà bị thiếu nước hay mất nước...

BỆNH DO LẠNH TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà bị lạnh với biểu hiện đứng...

BỆNH DO NÓNG TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Nhiệt độ quá nóng trong chuồng nuôi...

BỆNH DO TỔN THƯƠNG TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đây là một bệnh nội ngoại khoa...

BỆNH THIẾU KALI TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Kali trong cơ thể có tác dụng...

BỆNH VIÊM THẬN SỚM Ở GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh chỉ thấy xuất hiện ở gà...

BỆNH MỆT MỎI CỦA GÀ ĐẺ CÔNG NGHIỆP

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh CLF thường xảy ra ở gà...

BỆNH CÒI XƯƠNG

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đây là bệnh thường phổ biến ở...

BỆNH MỀM ĐỐT SỐNG

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thường thấy ở gà thịt giai...

BỆNH SỤN HOÁ XƯƠNG BÀN CHÂN

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh sụn hoá xương chày, xương bàn...

BỆNH GOUT

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh gout trên gà chia làm hai...

Kỹ thuật phòng và chữa bệnh cho vịt

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Sở hữu tổng đàn gia súc, gia...

LỰA CHỌN HỆ THỐNG CẤP NƯỚC CHO ĐÀN GÀ

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Ai cũng biết nước là nguồn dinh...

7 CÁCH GIÚP TĂNG LƯỢNG THỨC ĂN ĂN VÀO Ở HEO CAI SỮA

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Nếu lượng thức ăn ăn vào tăng...

ĐỘC TỐ NẤM MỐC: CÁNH CỬA CHO CÁC BỆNH TRUYỀN NHIỄM.

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Ảnh hưởng trực tiếp của độc tố...

BỔ SUNG CHẤT ĐIỆN GIẢI CHO GÀ

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Không khí nóng gây thiệt hại rất...

CÁC BIỆN PHÁP GIÚP THỤ TINH NHÂN TẠO THÀNH CÔNG

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Thụ tinh nhân tạo có nhiều ưu...

QUẢN LÝ NÁI CAO SẢN

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Lý do khiến các trại tuy đã...

NUÔI DƯỠNG GÀ VÀO MÙA NÓNG

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Thông qua việc tạo và giải phóng...

VITAMIN VÀ NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA HEO

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Một trong những yếu tố quan trọng...

BỆNH TGE TRÊN HEO – TRANSMISSBLE GASTROENTERITIS OF SWINE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH LỞ MỒM LONG MÓNG – FOOT AND MOUTH DISEASE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH MỤN NƯỚC TRÊN HEO – SWINE VESICULAR DISEASE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH MỤN NƯỚC TRONG MIỆNG HEO – SWINE VESICULAR STOMATITIS

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH PED TRÊN HEO – PORCINE EPIDEMIC DIARRHAE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH ĐẬU HEO – SWINE POX

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH VIÊM NÃO NHẬT BẢN TRÊN HEO – SWINE JAPANESE B ENCEPHALOMYETIS

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH VIÊM NÃO DO VIRUS NIPAH TRÊN HEO – NIPAH ENCEPHALITIS IN PIG

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

HỘI CHỨNG CÒI CỌC TRÊN HEO – POST WEANING MULTI SYSTEMIC WASTING SYNDROM

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH SẢY THAI DO PARVOVIRUS TRÊN HEO – PARVOVIRUS DISEASE OF SWINE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH PPRS TRÊN HEO – PORCINE REPRODUCTIVE AND RESPYRATORY SYNDROME

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH GIẢ DẠI TRÊN HEO – AUJESZKY

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH CÚM HEO – HOG FLU

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH DỊCH TẢ CHÂU PHI – AFRICA SWINE FIVER

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH DỊCH TẢ HEO – HOG CHOLERA

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH SƯNG PHÙ ĐẦU TRÊN GÀ – AVIAN PNEUMOVIRUS (APV)

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

HỘI CHỨNG CÒI CỌC DO REOVIRUS – REO

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH CÚM GIA CẦM – AVIAN INFLUENZA (AI)

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH BẠI HUYẾT TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH KHẸC TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH HUYẾT TRÙNG TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH E. COLI TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH THƯƠNG HÀN TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm