

Bệnh trâu


- Ngộ độc trên trâu bò là tình trạng xảy ra khi động vật tiếp xúc hoặc tiêu thụ các chất độc hại qua đường tiêu hóa, hô hấp, hoặc da. Bệnh thường do thức ăn, nước uống bị nhiễm độc, hóa chất, thuốc trừ sâu, hoặc thậm chí do thực vật chứa độc tố. Dưới đây là thông tin chi tiết hơn về ngộ độc trên trâu bò:
1. Nguyên nhân gây ngộ độc
- Thức ăn hoặc nước uống bị nhiễm độc: Thức ăn mốc, thối (nhiễm độc tố nấm mốc như aflatoxin). Nước bị nhiễm hóa chất, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ.
- Hóa chất và thuốc: Thuốc diệt cỏ như Paraquat hoặc Glyphosate. Thuốc trừ sâu (phospho hữu cơ, carbamate). Kim loại nặng (chì, đồng, arsenic).
- Thực vật độc: Một số cây chứa alkaloid độc như cỏ bông lau, cây lục bình. Hạt của một số loài cây (ví dụ: hạt xoan).
- Ngộ độc khí: Hít phải khí độc như NH₃ (ammonia) hoặc H₂S (hydro sulfide) trong môi trường nuôi nhốt không thoáng khí.
2. Triệu chứng
- Tùy theo loại hóa chất, chất độc hay liều lượng khác nhau mà trâu, bò ăn hay uống phải mà mức độ biểu hiện khác nhau nhưng thường các chất độc này khi vào cơ thể sẽ tác động tới hệ thần kinh trung ương, hệ thống tiêu hóa và các cơ quan trong cơ thể.
- Trường hợp ngộ độc cấp trâu, bò thường có biểu hiện chảy rớt rãi, nước mắt chảy ra liên tục, mắt đỏ ngàu và có thể gây ra ỉa chảy, ỉa ra máu tươi. Chất độc tác động lên hệ trung khu vận động làm con vất mất phương hướng, chạy nhảy lung tung, đi vòng tròn, siêu vẹo Chất độc tác độc tác động lên trung khu hô hấp, tuần hoàn, làm cho con vật thở dốc, thở mạnh, tim đập nhanh, loạn nhịp, trụy tim mạch và chết nhanh sau 3-6 giờ
- Trong trường ngô độc trường diễn: Trâu, Bò liên tục được tiếp nhận chất độc với số lượng nhỏ nhưng liên tục trong thời gian dài. Các chất đọc sẽ tích lũy trong cơ thể gây biến đổi bệnh lý chậm, khó phát hiện ngay nhưng thường gan sẽ là cơ quan đầu tiên bị tác động và gan sẽ bị thoái hóa gây rối loạn tiêu hóa sinh ra ỉa chảy kéo dài
3. Điều trị
- Tìm ra nguyên nhân gây ra ngô độc tránh cho bệnh nặng hơn
- Đưa con vật vào nơi thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông
- Dùng Cafein, long lão để trợ tim
- Dùng thuốc an thần để giảm hưng phấn thần kinh: NASHER ZAPER, liều 1ml/20 kg TT
- Chống xuất huyết bằng Vitamin K, Vitamin C
- Giải độc cho bò: Truyền tĩnh mạch dung dịch huyết thanh mặn hoặc đường đẳng trương với liều 2lít/100kgP. Cho uống chất điện giải SUPER C 100, T.C.K.C, liều 1g/1-2 lít nước và cho uống càng nhiều càng tôt. Ngoài ra cần điều trị các biểu hiện kế phát như – Trâu, Bò bị chướng hơi thì tìm mọi biện pháp để thoát hơi

BỆNH XOẮN KHUẨN Ở TRÂU BÒ
Bệnh xoắn khuẩn ở trâu, bò gây ra thiệt hại lớn cho người chăn nuôi và có khả năng lây sang người. Xoắn khuẩn Leptospira gây bệnh chủ yếu qua đường tiêu hóa với các biểu hiện bệnh đặc trưng. Phòng và điều trị bệnh kịp thời là vô cùng quan trọng.
1. Tác nhân gây bệnh
- Bệnh do vi khuẩnLeptospira interrogans gây ra cho người và nhiều loài động vật như trâu, bò, dê, heo, chó, mèo, động vật hoang dã. Các serotype gây bệnh không có vật chủ cố định, chỉ một số serotype cảm nhiễm một số vật chủ nhất đị
- Động vật mang trùng, chủ yếu là các gia súc nhiễm bệnh, động vật hoang dã mang bệnh, đặc biệt là chuột. Mầm bệnh được thải qua nước tiểu động vật, làm cho thức ăn, nước uống, nước rửa chuồng, nước tắm của gia súc, nước ao, hồ, mương, rãnh và môi trường bị nhiễm khuẩn.
- Ở động vật mang trùng, xoắn khuẩn cư trú trong thận và bài thải qua nước tiểu hàng tháng, hàng năm hoặc dài hơn, đây là nguồn bệnh rất nguy hiểm. Bệnh phát sinh và phát triển quanh năm, nhưng thường thấy bệnh xảy ra nhiều vào các tháng nóng ẩm, mưa nhiều từ mùa hè tới đầu mùa thu.
- Do người, động vật khỏe tiếp xúc trực tiếp với người, động vật mang bệnh, đặc biệt là bệnh lây khi phối giống. Hoặc khi người, động vật khỏe tiếp xúc với nguồn nước hoặc môi trường nhiễm khuẩn, xoắn khuẩn xâm nhập qua niêm mạc miệng, mũi, giác mạc mắt và da bị xây xát, tổn thương để vào cơ thể gây bệnh.
2. Triệu chứng
Thời gian nung bệnh 10 – 20 ngày. Gia súc phát bệnh ở 3 thể:
- Thể quá cấp:Bệnh phát ra đột ngột, con vật sốt cao, giảm hoặc ngừng nhu động dạ cỏ và ruột, mệt mỏi, mắt lờ đờ thích nằm, kém ăn hoặc bỏ ăn, táo bó Niêm mạc và da vàng sẫm, nước tiểu cũng vàng. Thể này thường gặp ở gia súc có chửa, vật bệnh chết trong thời gian 3 – 7 ngày.
- Thể cấp tính:Thường gặp ở gia súc non, sốt cao 40 – 410C, mệt nhọc, ít ăn hoặc bỏ ăn, nhu động dạ cỏ giảm. Một số trường hợp sau giai đoạn táo bón, con vật tiêu chảy. Da, niêm mạc vàng sẫm, nước tiểu vàng hoặc nâu vì có huyết sắc tố, đôi khi lẫn cả máu. Mí mắt, môi, má có hiện tượng phù thũng và hoại tử da. Con vật gầy nhanh, lông dựng và thiếu máu nặng. Bệnh kéo dài 5 – 10 ngày, tỷ lệ chết 50 – 70%
- Thể mãn tính:Xảy ra trên trâu, bò, dê mọi lứa tuổ Vật bệnh chỉ thể hiện gầy yếu, lông rụng, thiếu máu, đôi khi có phù thũng ở mặt, ở yếm ngực, nước tiểu vàng, tiêu chảy dai dẳng. Gia súc chửa có thể bị sảy thai.
3. Bệnh tích
- Hiện tượng vàng da và niêm mạc, rất rõ ở niêm mạc mắt. Trên da và niêm mạc miệng có những mảng hoại tử, loét. Tổ chức liên kết dưới da vàng, keo nhầy và thủy thũng.
- Tích nước xoang ngực, xoang bụng, dịch có màu vàng. Xuất huyết dưới da, niêm mạc ruột, phổi, tim, thận và lách, máu loãng.
- Thận nhạt màu, có những điểm hoại tử màu vàng xám xen kẽ, bổ ra thấy giới hạn giữa vùng vỏ và tủy không rõ.
- Bàng quang chứa đầy nước tiểu màu đỏ, vàng hoặc sẫm. Có khi bàng quang xẹp, không có nước tiểu.
- Gan sưng, vàng, nát, có những đám hoại tử. Phần lớn túi mật teo, mật đặc quánh. Hạch lâm ba ruột sưng, phổi thủy thũng, phế quản, phế nang có nhiều nước.
4. Phòng bệnh
- Cần xét nghiệm huyết thanh học xác định chủngleptospira gây bệnh tại địa phương để chọn loại vaccine tiêm phòng phù hợ Hiện nay thường dùng là vaccine chết gồm 6 chủng gây bệnh phổ biến tại Việt Nam. Ngoài phòng bằng vaccine nên kết hợp với chẩn đoán để phát hiện gia súc bệnh kịp thời cách ly tránh lây lan.
- Vệ sinh sát trùng chuồng trại bằng KLORTABS, 1 Viên pha10 lít nước phun 75 m vuông định kỳ 15 ngày/lần. Chú ý diệt chuột trong khu trại chăn nuôi vì chuột mang mầm bệnh và làm lây lan bệnh giữa các khu trại. Kiểm tra huyết thanh học định kỳ để xử lý các trường hợp bệnh mãn tính. Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống và môi trường xung quanh hàng ngày. Thu dọn phân, nước tiểu và đồ ăn thừa, tránh làm lây lan mầm bệnh. Tăng cường và bổ sung các chất dinh dưỡng cần thiết để trâu có sức đề kháng tốt, chống chịu được bệnh. Sát khuẩn định kỳ 2 tuần/lần chuồng trại và môi trường xung quanh bằng các dung dịch có tính khử trùng mạnh như Vimekon.
5. Trị bệnh
- Cần phải phát hiện sớm, cách ly tuyệt đối, điều trị kịp thời, triệt để cho gia súc mắc bệnh xoắn khuẩn. Có thể dùng kháng huyết thanh Lepto để điều trị nhưng chú ý kháng huyết thanh được chế từ các serotyp gây bệnh mới có hiệu quả điều trị cao. Khi trâu, bò bị bệnh có thể sử dụng một trong các loại kháng sinh sau:
- Dùng ZITREX, liều lượng 1 ml/20-40 kg thể trọng trong 3 – 5 ngày hoặc TIACYCLINE 1ml/10 kg TT, OXYLONG 20%, liều 1ml/10kg TT. Cùng đó kết hợp với một số thuốc kháng viêm, hạ sốt NASHER TOL 1ml/20kg TT sử dụng trong 3 – 5 ngà Nên kết hợp tiếp nước có chất điện giải để giải độc cho máu và các thuốc hỗ trợ khác như Vitamin C, B – Complex. Kiểm tra huyết thanh học định kỳ để xử lý các trường hợp bệnh mãn tính.

BỆNH VIÊM VÚ Ở TRÂU BÒ
- Bệnh viêm vú trên trâu bò được biết đến là tình trạng vú bị viêm nhiễm liên tục trong giai đoạn cho con bú, khai thác sữa, làm giảm năng suất sữa và khả năng sinh sản. Bệnh viêm vú không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến trâu, bò bị chết. Đối với bà con chăn nuôi bò sữa, bệnh viêm vú gây thiệt hại lớn trong khai thác sữa, làm giảm năng suất sữa và khả năng sinh sản. Bò sữa có thể giảm sản lượng sữa từ 20-30%. Khi tuyến sữa bị tổn thương sẽ dẫn đến chất lượng sữa không đảm bảo và phải loại bỏ. Ngoài ra khi con non bú phải sữa bị viêm còn bị tiêu chảy, còi cọc và tăng tỷ lệ chết.
- Thực tế đã cho thấy bệnh viêm vú ở trâu, bò có tổn thương gấp hai lần so với những căn bệnh sản khoa khác. Không chỉ dừng lại ở việc làm giảm chất lượng sữa mà còn để lại các biến chứng trên gia súc. Một số tổn thương cụ thể như nang tuyến vú, ống dẫn sữa, teo bầu vú,…
1. Nguyên nhân gây viêm vú ở Trâu, Bò
- Bệnh viêm vú ở trâu bò xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng tình trạng này có thể xảy ra do một hoặc lồng ghép với các tác nhân sau đây:
- Thể trạng của gia súc
+ Trâu, bò có bầu vú chảy xệ dễ tiếp xúc với nền chuồng trại có thể dẫn đến trình trạng viêm. Bởi nền chuồng có nhiều vi khuẩn, phân, nước thải dễ dàng tiếp xúc xâm nhập vào cơ quan tiết sữa. Vì vậy bầu vú nhanh chóng phát bệnh làm giảm chất lượng sữa và nguồn dinh dưỡng dồi dào.
- Môi trường
+ Môi trường chăn nuôi kém cũng là nguyên nhân gây nên bệnh viêm vú ở trâu, bò. Với độ ẩm thấp, chất thải của trâu bò không được xử lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật phát triển và xâm nhập gây bệnh trên vật nuôi.
- Vi khuẩn
+ Một số vi khuẩn sau đây là nguyên nhân gây nên tình trạng viêm vú như tụ cầu Staphylococcus Aureus, liên cầu Streptococcus, trực khuẩn gây mủ Bacillus Pyogenes. Ngoài những vi khuẩn này thì còn còn một số vi khuẩn khác cũng phối hợp gây bệnh như xạ khuẩn nung mủ Actinomyces Pyogenes.
2. Triệu chứng
- Triệu chứng của bệnh viêm vú có thể quan sát như bầu vú sưng, sốt, bỏ ăn, sờ có phản ứng đau. Khi vắt sữa khó khăn hoặc ngưng tiết sữa, sữa xuất hiện mùi lạ, hôi tanh, màu khác thường, không đồng nhất, nhiều lợn cợn. Thường gặp nhất là tình trạng sữa chuyển từ màu trắng sang xanh, vàng, đỏ.
- Tùy thuộc vào từng giai đoạn mắc bệnh mà triệu chứng có thể khác nhau. Tuy nhiên, nếu không phát hiện sớm và điều trị viêm vú ở bò kịp thời sẽ dẫn đến các nguy cơ như:
+ Teo bầu vú vì các tế bào tổn thương không thể phục hồi. Khả năng tiết sữa giảm dần hoặc mất hẳn.
+ Xơ cứng bầu vú, xuất hiện các cục rắn chắc hoặc rắn chắc toàn bộ bầu vú.
+ Hoại tử bầu vú, lở loét, chảy dịch,…
+ Lây nhiễm, tử vong hàng loạt.
3. Điều trị
- Khi phát hiện dấu hiệu trâu, bò nhiễm bệnh, cần tiến hành cách ly ngay.
- Giảm khẩu phần thức ăn tinh, nhiều đạm, nhiều nước, thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao.
- Tăng cường vắt sữa 3-5 lần/ngày để thải trừ mầm bệnh ở tuyến vú. Giảm cương cứng vú.
- Xoa bóp bầu vú bị viêm bằng khăn sạch thấm nước ấm.
- Vệ sinh bầu vú sạch sẽ.
- Vệ sinh chuồng trại chăn nuôi sạch sẽ.
- Sử dụng kháng sinh theo phác đồ điều trị thích hợp: NASHER AMX liều 1 ml/10 kgTT, GENTAMYCINE 4%, liều 0,75mg/10kg TT hoặc NASHER QUIN, liều 1ml/25 kg TT

BỆNH VIÊM PHẾ QUẢN PHỔI Ở BÊ NGHÉ
1. Nguyên nhân
- Do vi khuẩn: Bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu là do:Haemophilus, Mycoplasma, Staphylococcus, Streptococcus và Pasteurella. Miền Bắc bệnh thường xảy ra trong giai đoạn chuyển từ mùa thu sang đông hoặc đầu xuâ Miền Nam bệnh thường xuất hiện lúc chuyển từ mùa nắng sang mùa mưa và cả trong mùa mưa.
- Do ký sinh trùng: Giun phổi Dictyocaulus viviparur là nguyên nhân quan trọng, ấu trùng giun phổi, giun đũa thường vào cơ thể qua đường tiêu hoá, xâm nhập vào máu rồi lên phổi bê.
2. Triệu chứng
- Bê sốt cao 40-41oC
- Bê mệt mỏi, ủ rũ, bỏ ăn, chảy nước mắt, nước mũi
- Bê có biểu hiện khó thở và tiếng thở có tiếng ran như tiếng vò tóc hoặc lép bép
- Con vật thường có biểu hiện ho, đặc biệt về đêm và sáng sớm
- Giai đoạn nặng:
+ Dịch mũi trở nên đục, nhầy hoặc có mủ.
+ Ho dữ dội, khó thở (thở rít, bụng phập phồng).
+ Yếu ớt, lười ăn, giảm vận động.
+ Có thể thấy dấu hiệu mất nước, sụt cân nhanh.
+ Trong trường hợp nặng, có nguy cơ tử vong do suy hô hấp.
3. Điều trị
- Đây là bệnh do vi khuẩn gây ra vì vậy có thể dùng kháng sinh để điều trị và có thể dùng một số loại kháng sinh sau: GENTAMYCIN 4% liều 0,75ml/ 10kg TT, uống 2mg/10 kg TT, NASHER QUIN 1ml/ 25kg TT, OXYLONG 1ml/ 10kg TT
4. Phòng bệnh:
- Quản lý chuồng trại: Đảm bảo chuồng khô ráo, thông thoáng nhưng không có gió lùa. Tránh khí độc (NH3, H2S) bằng cách dọn vệ sinh thường xuyên.
- Chăm sóc bê nghé: Cho bê bú đủ sữa đầu ngay sau sinh (trong 2-4 giờ đầu). Bổ sung vitamin A, D, E và các khoáng chất như kẽm, selen để tăng sức đề kháng. Tránh stress (như vận chuyển xa hoặc thay đổi đột ngột môi trường).
- Tiêm phòng: Tiêm vaccine phòng các bệnh hô hấp như IBR, PI3, và BRSV theo hướng dẫn của bác sĩ thú y.

HỘI CHỨNG ỈA CHẢY Ở BÊ, NGHÉ
Bệnh tiêu chảy thường xảy ra ở bê, nghé non dưới 6 tháng tuổi. Bệnh thường xảy ra quanh năm, đặc biệt vào mùa xuân có mưa phùn ẩm ướt, mùa hè nóng ẩm sau những trận mưa rào làm chuồng trại và bãi chăn bị ô nhiễm. Nếu không điều trị kịp thời, vật nuôi sẽ chết do mất nước và chất điện giải.
1. Nguyên nhân
- Bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra: Do vi khuẩn: (E.coli, Salmonella, Clostridium perfringens….); Do virus (thường là Parvo virus ở bê non); Do ký sinh trùng (cầu trùng, giun đũa, sán lá gan, giun xoăn dạ muối khế…); Do nấm (thường gặp là Candida albican); Do thức ăn nhiều đạm, nhiều béo hoặc thức ăn ôi mốc hoặc thay đổi thức ăn đột ngột.
- Nhưng nguyên nhân chủ yếu là do rối loạn tiêu hóa thức ăn, hoặc bị nhiễm khuẩn.
- Khi bị giun đũa bê, nghé có dáng điệu lù đù, mệt mỏi, bụng to, lông xù, hay nằm một chỗ. Khi mắc bệnh bê nghé uống nhiều nước, ăn ít hoặc bỏ ăn, không nhai, thức ăn ứ lại trong dạ dày, dạ lá sách bị cứng.
- Lúc đầu phân lổn nhổn, hơi táo, từ màu đen chuyển sang vàng xám, đặc sền sệt, sau đó chuyển sang màu trắng và loãng dần, có khi lẫn dịch mũi nhầy, mùi tanh khắm, rất thối. Còn khi bị cầu trùng bê, nghé ỉa chảy, phân có mùi tanh.
- Khi ỉa con vật cong lưng rặn nhưng phân ra ít và có dính chất nhầy và máu.
2. Điều trị
- Trước khi điều trị phải kiểm tra nguồn thức ăn, nước uống xem có bị nhiễm bẩn hay ôi mốc không để loại trừ. Nếu bị ỉa chảy thông thường có thể dùng các loại lá chát như búp ổi, sim, phèn đen, quả hồng xiêm giã nát, hoặc nước cho uống. Trường hợp nhiễm khuẩn, ỉa chảy kéo dài phải dùng kháng sinh cho uống hoặc tiêm bắp. Nếu mất nước nhiều phải bổ sung nước và chất điện giải bằng cho uống dung dịch SUPER C 100 hoặc T.C.K.C, hoặc truyền huyết thanh mặn ngọt vào tĩnh mạch 1.000 ml/100 kg thể trọng.
- Trường hợp ỉa chảy do giun đũa, phải dùng thuốc tẩy giun đũa để điều trị. Có thể dùng IVERTIN Liều 1ml/33kg TT, trường hợp bị nặng có thể điều trị lặp lại sau 5 ngày. Hoặc dùng Levamisol liều 6 – 7 mg/kg thể trọng, cho uống 1 lần vào buổi sá
- Trường hợp ỉa chảy do cầu trùng, có thể dùng các đơn thuốc sau: SULTRIM 1000. Liều 1g/30-50kg TT/ngày. Dùng liên tục 3-5 ngày
- Cần lưu ý, trong khi điều trị bệnh cầu trùng nên kết hợp dùng kháng sinh để chống nhiễm khuẩn đường tiêu hoá như Gentamycin và dùng các thuốc trợ sức trợ lực như Vitamin B1, Vitamin C, Vitamin K, Cafein. Trường hợp mất nhiều nước, bê nghé yếu cần truyền huyết thanh mặn ngọt với lượng 1.000 ml/100 kg thể trọng. Bổ sung vi sinh vật có lợi để cần bằng hệ vi sinh vật đường tiêu hóa cho bê, nghé.
3. Phòng bệnh
- Để phòng hội chứng tiêu chảy cần nuôi dưỡng tốt bê nghé con, cho ăn đủ khẩu phần, thức ăn chất lượng tốt, nước uống sạch sẽ, đầy đủ, không thay đổi thức ăn đột ngột. Luôn giữ cho chuồng nuôi ấm áp, khô ráo và sạch sẽ. Thường xuyên dọn vệ sinh chuồng nuôi, phân tập trung ủ để diệt trứng giun và cầu trùng.
- Thường xuyên vệ sinh chồng trại sạch sẽ, định kỳ tiêu độc khử trùng diệt trung gian truyền bệnh (ruồi, muỗi, mòng…). Định kỳ tẩy trừ giun, sán ký sinh đường tiêu hóa cho bê, nghé.

BỆNH LÊ DẠNG TRÙNG Ở TRÂU BÒ
- Lê dạng trùng là bệnh có thể gây thiệt hại lớn đến trâu, bò nếu không chữa trị kịp thời. Do đó, để hạn chế dịch bệnh xảy ra, người nuôi cần xác định được nguyên nhân, triệu chứng và đưa ra phương pháp điều trị đạt hiệu quả cao.
1. Nguyên nhân
- Bệnh lê dạng trùng là bệnh do loài động vật đơn bào có hình dạng quả lê, kích thước nhỏ bé từ 1- 2 µm ký sinh trong máu các loài động vật gây ra. Ở Việt Nam, có 2 loài lê dạng trùng chủ yếu gây bệnh cho trâu, bò là loàiBabesia bigemina và Babesia bovis.
- Vòng đời của lê dạng trùng có 2 giai đoạn: Giai đoạn ký sinh ở hồng cầu trâu bò, sinh sản vô tính và Giai đoạn ở vật chủ trung gian là ve. Trong vật chủ trung gian, lê dạng trùng sinh sản hữu tính, qua 5 giai đoạn, cuối cùng thành bào tử, vào tuyến nước bọt ve, truyền sang trâu bò khi ve hút máu trâu bò.
Babesia bigemina
2. Đặc điểm dịch tễ
- Khi vào máu lê dạng trùng sinh sản vô tính rất nhanh, bám vào hồng cầu, tiết độc tố, phá vỡ hồng cầu sinh ra độc tố kích thích đại não sinh nhiệt gây sốt cao, co giật, thở khó, kém ăn, gầy yếu, sẩy thai, đái ra máu… nếu không điều trị kịp thời bò có thể chết. Bệnh lê dạng trùng ở bò có ở khắp nơi trên thế giới, nhưng phổ biến ở các nước nhiệt đới châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.
- Tỷ lệ tử vong ở bò bị nhiễm đạt đến 90%.
- Mầm bệnh Babesia spp. được truyền từ con vật bệnh sang con vật khỏe qua một số loài ve như Ixodes ricinus, Haemaphysalis spp. và Rhipicephalus spp.
- Bệnh gặp ở trâu, bò mọi lứa tuổi, giống và không phân biệt giới tính, phổ biến ở vùng nóng ẩm, đặc biệt là vùng đồng bằng và miền núi, nơi có nhiều loài ve truyền bệnh. Ở những vùng dịch mang tính chất địa phương, bệnh xảy ra chủ yếu trên trâu, bò non.
3. Triệu chứng lâm sàng
- Ở thể cấp tính, thời gian ủ bệnh từ 10 – 15 ngày Trâu, bò mệt mỏi, kém ăn trong thời gian ủ bệnh.
- Sau đó sốt cao liên tục hàng tuần ở 40 – 41 độ C, đái ra nước tiểu màu hồng, đỏ dần và cuối cùng đỏ đậm như màu cafe do trong nước tiểu có nhiều huyết sắc tố, có trường hợp bò ỉa chảy ra má
- Các hạch lâm ba sưng to, phù thũng đặc biệt là hạch trước vai và trước đù Hồng cầu và huyết sắc tố giảm xuống rất nhanh, có thể giảm tới 60 – 70% so trạng thái sinh lý bình thường. Nhất là bò có hiện tượng khó thở do thiếu hồng cầu vận chuyển ôxy.
- Các niêm mạc: mắt, miệng đỏ sẫm mấy ngày đầu, sau tái nhợt ở giai đoạn cuối của bệnh. Ở thể mãn tính, có các dấu hiệu lâm sàng giống thể cấp tính nhưng nhẹ hơn.
- Bò thể hiện thiếu máu, gầy yếu và giảm sản lượng sữa hoặc cạn sữa. Một số trường hợp bò mang thai bị bệnh có thể sảy thai.
4. Bệnh tích
- Phổi có thể phù và sưng. Gan sưng và hoàng đản, túi mật có thể xuất huyết ở bề mặt màng nhày, túi mật giãn to ra với vách dày, chứa mật xanh đen. Lách sưng rõ rệt. Máu loãng và lỏng. Bàng quang thường giãn to, chứa nước tiểu sậm màu đỏ nâu. Hoàng đản thường phân bố ở mô liên kết. Các hạch lâm ba phù và thường có xuất huyết lấm tấm.
5. Phòng trị bệnh
- Thường xuyên thực hiện vệ sinh chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi, phương tiện vận chuyển, thức ăn, nước uống, phát quang bụi rậm, lấp vũng nước, khơi thông cống rãnh, bãi chăn để côn trùng không lưu trú và phát triển.
- Hàng năm, thực hiện tiêm phòng bệnh cho trâu, bò vào thời điểm đầu mùa nắng nóng (tháng 3 đến tháng 4 hàng năm).
- Định kỳ dùng thuốc khử trùng tiêu độc: KLORTABS, 1 viên cho 10 lít nước phun 75 mét vuông, Han-Iodine 10% phun 1 – 2 lần/tuầ
- Định kỳ 4 – 6 lần/tháng kiểm tra máu trâu, bò.
- Chăm sóc nuôi dưỡng tốt để tăng sức đề kháng cho trâu, bò.
6. Điều trị
- Có thể dùng các thuốc như Acriflavin, Azidin 1,18 g để điều trị bệnh, liều lượng và cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Trong thời gian điều trị cần có chế độ chăm sóc nuôi dưỡng tốt, bổ sung thêm các vitamin như ACTIVITON 1ml/10kg TT, khoáng chất để nâng cao sức đề kháng cho trâu, bò.

BỆNH LƯỠI XANH Ở LOÀI NHAI LẠI: CƠ CHẾ LÂY TRUYỀN VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA
Bệnh lưỡi xanh có thể gây tử vong cho các loài nhai lại như cừu, bò và dê. Một biến thể mới của căn bệnh này đã lây lan ở Bắc Âu từ cuối năm ngoái, dẫn đến các chiến dịch tiêm chủng ở các quốc gia bị ảnh hưởng như Pháp.
Bệnh lưỡi xanh được chẩn đoán đầu tiên ở Nam Phi trên cừu vào đầu thế kỷ 20. Nó bắt đầu lan truyền ra ngoài lãnh thổ Phi châu khi phát hiện ở đảo Síp năm 1943, mặc dù có khả năng bệnh đã có vào khoảng năm 1924. Kế đó phát hiện bệnh tại Israel (1951), Pakistan (1959), Ấn Độ (1963). Lần đầu tiên bệnh được thấy với triệu chứng đau mồm ở cừu tại bang Texas của Mỹ vào năm 1948, ở California vào năm 1952 đã xác định được nguyên nhân là do bệnh lưỡi xanh. Trong khoảng thời gian 1956 – 1960, virus lưỡi xanh đã gây dịch chủ yếu trên cừu tại Bồ Đào Nha và phía nam Tây Ban Nha gây thiệt hại đến hơn 180 nghìn con. Hơn nửa triệu con cừu đã chết kể từ khi bệnh lây lan qua Địa Trung hải vào Nam Âu vào khoảng năm 2005 và đang lan dần về phía bắc. Bệnh lưỡi xanh ở gia súc xuất hiện lần đầu tiên ở Bắc Âu vào năm 2006 và chỉ trong vòng vài tuần sau đó, dịch bệnh này đã lan ra 2.000 trang trại gia súc ở Hà Lan, Bỉ, Đức, Pháp và Luxemburg.
Tại nước ta, chưa vó báo cáo nào cho thấy bệnh xuất hiện, nhưng với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, trình độ chăn nuôi và quy mô đàn thú nhai lại ngày càng gia tăng thì cần có một nghiên cứu đầy đủ về sự tồn tại của bệnh tại nước ta trong thời gian tới.
1. Bệnh Lưỡi xanh là gì?
Bệnh Lưỡi xanh (LX) là một căn bệnh không truyền nhiễm, có tác nhân là vi rút, ảnh hưởng đến động vật nhai lại gia súc và hoang dã (chủ yếu là cừu và cũng bao gồm cả bò, dê, trâu, linh dương, hươu, nai và lạc đà), lây truyền qua côn trùng, nhất là loài muỗi đốt Culicoides. Vi rút gây ra bệnh lưỡi xanh được xác định là một thành viên của họ Reoviridae. Hai mươi bốn kiểu huyết thanh khác nhau đã được phát hiện và khả năng gây bệnh của mỗi loại này khác nhau đáng kể.
Mức độ nghiêm trọng của bệnh khác nhau tùy theo loài, trong đó nghiêm trọng nhất ở cừu, bao gồm các triệu chứng sụt cân, gián đoạn quá trình phát triển lông và gây chết. Ở những con cừu mẫn cảm, tỷ lệ nhiễm bệnh có thể lên tới 100%. Tỷ lệ tử vong trung bình chỉ từ 2-30% nhưng có thể tăng vọt tới 70%
So với cừu, bò mẫn cảm hơn và mức độ các triệu chứng lâm sàng thay đổi tùy theo chủng vi rút. Hiện nay, chủng vi rút lưỡi xanh đang lưu hành ở Bắc Âu có ý nghĩa đáng kể về dịch tễ học, do gây triệu chứng lâm sàng trên bò.
Ở những quốc gia có bệnh lưỡi xanh lưu hành, tác động chủ yếu là mất đi hoạt động thương mại do các hạn chế và chi phí giám sát, xét nghiệm sức khỏe và tiêm chủng. Bệnh lưỡi xanh là một căn bệnh được xếp vào Bộ luật Sức khỏe Động vật trên cạn của OIE và theo Bộ luật này, các trường hợp nhiễm bệnh phải được báo cáo cho Tổ chức Thú y thế giới.
2. Sự truyền và lây lan bệnh
Côn trùng là chìa khóa để truyền vi rút lưỡi xanh giữa các loài động vật. Các véctơ bị nhiễm vi rút lưỡi xanh sau khi tiêu thụ máu của động vật bị nhiễm bệnh. Nếu không có véctơ, bệnh không thể lây lan từ động vật này sang động vật khác. Sự lây truyền vi rút lưỡi xanh có thể xảy ra quanh năm, nhất là trong mùa mưa. Gia súc bị nhiễm bệnh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc vi rút lưu hành tại một khu vực. Những gia súc này là nguồn vi rút suốt nhiều tuần, trong khi có ít hoặc không có triệu chứng lâm sàng bệnh và thường là vật chủ ưa thích của côn trùng truyền bệnh.
Vi rút đã được tìm thấy trong tinh dịch của những con bò đực và cừu đực bị nhiễm bệnh, có thể lây truyền sang những con bò cái và cừu cái mẫn cảm với mầm bệnh, nhưng đây không được xem là nguyên nhân gây lây lan đáng kể. Vi rút lưỡi xanh cũng có thể được truyền qua nhau đến thai nhi.
Vi rút không lây truyền qua tiếp xúc với động vật, các sản phẩm len hoặc sữa.
3. Rủi ro sức khỏe cộng đồng
Không có rủi ro về vấn đề sức khỏe cộng đồng liên quan đến bệnh lưỡi xanh.
4. Triệu chứng lâm sàng
* Các triệu chứng lâm sàng ở cừu bị nhiễm bệnh có thể không giống nhau và bao gồm:
Sốt;
Xuất huyết và loét mô miệng và mũi;
Chảy nhiều nước dãi, sưng môi, sưng lưỡi và hàm;
Viêm vành (phía trên) móng và đi khập khiễng;
Yếu ớt, suy nhược, sút cân;
Tiêu chảy nhiều, nôn mửa, viêm phổi;
Lưỡi có màu xanh do chứng xanh tím (hiếm gặp);
Cừu cái mang thai có thể bị sảy thai;
Trong quá trình hồi phục của những con cừu có thể gặp tình trạng rụng lông một phần hoặc toàn bộ do gián đoạn phát triển lông.
Các triệu chứng lâm sàng trên con vật phụ thuộc vào chủng vi rút, các loài gia súc nhai lại khác như dê thường không có hoặc có ít triệu chứng lâm sàng.
5. Chẩn đoán
Trường hợp nghi ngờ là bệnh lưỡi xanh, dựa trên các dữ kiện cần thiết như triệu chứng lâm sàng điển hình, sự phổ biến của các côn trùng trung gian truyền bệnh và đặc biệt là ở những khu vực bệnh lưu hành, để xác nhận chẩn đoán. (Quy định về sức khỏe động vật trên cạn của OIE và Sổ tay xét nghiệm chẩn đoán và vắc xin cho động vật trên cạn của OIE).
6. Phòng ngừa và kiểm soát
Ở những vùng lưu hành, các chương trình giám sát chủ động lấy mẫu động vật trong các đàn trọng điểm để theo dõi sự hiện diện của vi rút. Kết hợp với các chương trình giám sát chủ động để xác định vị trí, phân bố và tỷ lệ lưu hành của côn trùng truyền bệnh trong khu vực, các biện pháp kiểm soát có thể được thực hiện kịp thời như:
+ Xác định, giám sát và truy tìm các loài động vật mẫn cảm và có nguy cơ nhiễm bệnh;
+ Kiểm dịch và/hoặc hạn chế vận chuyển động vật trong thời kỳ hoạt động của côn trùng;
+ Xác định các vùng cụ thể;
+ Tiêm chủng;
+ Dùng các biện pháp kiểm soát côn trùng.
Tiêm vắc xin được xem như biện pháp hiệu quả và thiết thực nhất để giảm thiểu tổn thất liên quan đến bệnh lưỡi xanh, đồng thời làm đứt gãy sự chuyển đổi từ động vật nhiễm bệnh thành vật trung gian truyền bệnh. Cần sử dụng vắc xin được phát triển để bảo vệ chống lại chủng (hoặc các chủng) vi rút cụ thể đang lưu hành ở một khu vực nhất định.
7. Phân bố địa lý
Bệnh lưỡi xanh phân bố trên toàn cầu, đặc biệt ở những khu vực có loài côn trùng truyền bệnh – loài muỗi đốt Culicoides hiện diện, bao gồm châu Phi, châu Á, châu Úc, châu Âu, Bắc Mỹ và một số đảo ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Ở những khu vực có mùa đông không quá khắc nghiệt, cho phép muỗi đốt sống sót, cũng tạo điều kiện cho vi rút tồn tại. Có hơn 1.000 loài Culicoides nhưng chỉ có khoảng 20 loài là vật trung gian truyền vi rút lưỡi xanh còn năng lực gây bệnh. Do đó, sự phân bố địa lý của các loài côn trùng truyền bệnh thường sẽ hạn chế sự phân bố của bệnh.
Cừu sống ở các vùng lưu hành thường có sức đề kháng tự nhiên với bệnh lưỡi xanh. Dịch có thể bùng phát ở một khu vực khi những con cừu mẫn cảm hơn, đặc biệt là các giống cừu châu Âu được đưa vào các khu vực lưu hành, hoặc do sự di chuyển theo gió của muỗi Culicoides bị phơi nhiễm, chúng mang thêm vi rút đến khu vực lưu hành. Sự xuất hiện của bệnh lưỡi xanh thường song song với hoạt động của véctơ tăng đột biến trong thời kỳ nhiệt độ cao và lượng mưa lớn, bệnh cũng giảm dần khi xuất hiện đợt sương giá hoặc thời tiết lạnh khắc nghiệt hơn

7 YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG ĂN VÀO VÀ KHẢ NĂNG TIÊU HOÁ CỦA TRÂU BÒ
Chăn nuôi trâu bò cho thịt và cho sữa đang được phát triển mạnh ở nước ta để cung cấp sản phẩm thịt, sữa và phụ phẩm chế biến cho nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi này như giống, thức ăn, dịch bệnh, môi trường chăn nuôi, các yếu tố quản trị chăm sóc… và thị trường. Vì vậy, nhà chăn nuôi cần phải đầu tư thích đáng để đạt được hiệu quả chăn nuôi tốt nhất.
1. Cho ăn quá nhiều
Bò sẽ bị ảnh hưởng xấu do cho ăn quá nhiều và thường xuất hiện các triệu chứng đầy hơi, khó tiêu, và trướng bụng cấp tính hoặc tác động mạnh vào dạ dày. Ngoài ra, các loài vi khuẩn như Clostridium welchii thường được tìm thấy trong chất chứa ở ruột của vật trong tình trạng cho ăn quá mức với sự sản sinh độc tố quá mức trong ruột, sự hấp thụ nó sẽ gây ra bệnh. Ở những bò sữa bị ăn quá mức khi được mong muốn sản xuất phá kỷ lục, những triệu chứng rối loạn tiêu hóa như vậy xuất hiện đột ngột làm sụt giảm sản lượng sữa. Thể keton trong máu tăng quá mức cũng có thể xảy ra ở vật nuôi được cho ăn nhiều vì chúng không thể hoàn thành quá trình oxy hóa chất béo trong cơ thể. Các sản phẩm oxy hóa không hoàn toàn (vật thể keton) tích tụ trong máu và ảnh hưởng xấu đến tình trạng cơ thể và chất lượng sữa.
2. Cho ăn thiếu
Sự thiếu hụt các vitamin và khoáng chất liên tục kéo dài thường dẫn đến sự phát triển bệnh được gọi là bệnh dinh dưỡng, có thể gây ra thiệt hại không thể khắc phục và cần phải tránh. Sự thiếu hụt các yếu tố khác, chẳng hạn như thiếu năng lượng hoặc protein vừa phải, có xu hướng kìm hãm sự phát triển nhưng không gây hại đặc biệt nếu không tiếp tục quá lâu, đặc biệt là nếu vật nuôi không mang thai và dự kiến sẽ không sản xuất hiệu quả. Tuy nhiên, ở những vật nhân giống, việc cho ăn thiếu làm giảm đáng kể hoạt động sinh sản bình thường của chúng. Ở vật cái bị thiếu ăn có thể không động dục bình thường, và nếu có thai, vật còn tơ có thể không mang được thai, hoặc nếu được sinh ra, có thể sẽ bị yếu và phát triển kém.
3. Chế biến thức ăn
Việc nghiền thường cải thiện lượng ăn vào và cũng có thể thêm các kim loại vào thức ăn. Ví dụ, người ta đã phát hiện ra rằng việc nghiền bột cam quýt bằng máy nghiền Wiley đã làm tăng đáng kể sắt, kẽm, đồng, natri và mangan dưới dạng kim loại nghiền mịn có thể được sử dụng tốt hơn cùng với các nguyên tố tương tự vốn có trong thức ăn. Trong một số trường hợp, việc nghiền có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng tiêu hóa nhưng ở một mức độ khác nhau tùy thuộc vào mức độ mịn. Tỷ lệ tiêu hóa chất khô của cỏ khô được nghiền thô, trung bình và rất mịn đã bị giảm lần lượt 3,2%, 7,6% và 15,1% so với cỏ khô được nuôi ăn ở dạng dài. Cỏ khô được nghiền thô không chỉ dễ tiêu hóa hơn mà còn ngon miệng hơn. Ngoài ra, nó cho phép thời gian nhai lại lâu hơn, lượng nước bọt được sinh ra lớn hơn và tỷ lệ acetate với propionate cao hơn trong dạ cỏ, nó đặc biệt quan trọng đối với bò sữa vì acetate là tiền chất chính của quá trình tổng hợp chất béo của sữa. Xử lý nhiệt của các thức ăn khác được nhận thấy là có lợi, đặc biệt trong các trường hợp các thành phần như hạt bông vải hoặc đậu nành được đưa vào tổ hợp trong khẩu phần. Nhiệt nóng các thành phần như vậy ở 140-150° C trong 2-3 phút dẫn đến sự phá hủy các chất độc và chất ức chế tự nhiên có trong thức ăn (gossypol tự do trong hạt bông vải và chất ức chế trypsin trong đậu nành) và do đó cải thiện giá trị dinh dưỡng của chú
4. Số lần cho ăn
Khi cho vật nuôi ăn 5-6 lần mỗi ngày, sẽ có độ pH ổn định trong dạ cỏ ở các mức trong khoảng 5,5 đến 5,8, nhưng khi cho ăn chỉ 1-2 lần mỗi ngày, trong trường hợp này, giá trị pH sẽ thay đổi từ khoảng 5.1 đến 7.1 trong cùng ngày. Với giá trị pH ổn định trong dạ cỏ, tỷ lệ tiêu hóa của chất xơ khẩu phần sẽ tăng lên do hoạt động của vi khuẩn trong dạ cỏ tăng lên dẫn đến mức năng lượng tăng cần thiết cho hoạt động đó (nồng độ ATP ở dạ cỏ cao gấp 2,5 lần ở số lần cho ăn cao so với số lần cho ăn thấp). Ngoài ra, việc số lần cho ăn cao còn làm giảm lượng ammonia tạo ra trong dạ cỏ sau quá trình tiêu hóa protein, cho thấy tỷ lệ hình thành protein có thể phân giải thấp và tỷ lệ protein không phân giải cao được sử dụng cho mục đích sản xuất. Tỷ lệ tăng của protein không phân giải có liên quan đến protein phân giải trong dạ cỏ có lẽ được cho là do tốc độ tăng của chất tiêu hóa chuyển qua dạ cỏ bằng việc số lần cho ăn cao, do đó không đủ thời gian cho sự phân rã.
5. Yếu tố môi trường
Một số yếu tố môi trường có thể ảnh hưởng đến lượng ăn vào ở vật nuôi, chẳng hạn như: stress nhiệt, mưa, tiếng ồn và độ cao.
6.Yếu tố vật nuôi
Một số yếu tố của vật nuôi có thể ảnh hưởng đến ăn vào ở động vật, chẳng hạn như tuổi, mang thai và mức độ vận động.
7. Các bệnh của cơ thể
Một nghiên cứu đã được thực hiện để định lượng giảm lượng ăn vào và tổn thất sản xuất sữa có liên quan đến các rối loạn sức khỏe ở bò sữa. Lượng ăn vào bị giảm 6,7-14,7 kg chất khô (DM) trong các tình trạng bệnh như tiêu chảy, viêm vú, thể keton trong máu cao và sốt sữa với mức giảm 1,94 kg sản lượng sữa cho mỗi kg DM ăn vào giảm. Ví dụ như sự xâm nhập của ký sinh trùng bên ngoài cũng có thể ảnh hưởng xấu đến tình trạng protein của động vật. Giả sử một vật nuôi bị nhiễm 200 con ve, sau đó hàng ngày, con vật có thể mất 200ml máu hoặc 40 g protein (giả sử máu có 20% protein). Sự gia tăng nhu cầu về 40 g protein có thể được đáp ứng bằng cách cho ăn 150 g bột hạt bông vải hoặc từ protein vi sinh vật được sinh ra trong dạ cỏ từ 250 g carbohydrate tiêu hóa. Do đó, các nhu cầu đối với acid amin tăng là do bệnh ký sinh trùng và gia súc sẽ bị mất cân bằng về các chất dinh dưỡng của chúng trong và đôi khi sau khi điều trị ký sinh trùng. Vật nuôi bị cạn kiệt protein có khả năng tạo ra nhiều nhiệt hơn và việc sử dụng năng lượng trao đổi (ME) sẽ bị giảm.
Các ảnh hưởng của nội ký sinh trên trâu bò sẽ thay đổi theo mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng cũng như tuổi và mức stress của vật nuôi. Các nôi ký sinh trùng ảnh hưởng đến lượng ăn vào của vật nuôi theo mức thay đổi khác nhau tùy thuộc vào tính nghiêm trọng của sự xâm nhập. Một mối quan hệ như vậy có thể được quy cho ảnh hưởng của ký sinh trùng đến sự vận động của dạ cỏ, pH dạ cỏ và hệ nội tiết hormone điều chỉnh sự thèm ăn và lượng ăn vào. Nội ký sinh trùng cũng ảnh hưởng đến tiêu hóa và sử dụng protein khẩu phần, do lượng ăn vào giảm và nhu cầu của vật nuôi sử dụng protein thức ăn như một nguồn năng lượng bù đắp.
8. Các chiến lược cải thiện
Những gì có thể được thực hiện để ngăn chặn việc ăn vào và sử dụng thức ăn bị giảm do tất cả các yếu tố này?
Cần tránh cho vật nuôi ăn quá nhiều vượt quá nhu cầu thực tế của nó. Ngoài sự tiết kiệm thức ăn, cho ăn quá nhiều còn ảnh hưởng xấu đến môi trường dạ cỏ và gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe và sản xuất. Việc cho ăn thiếu cũng nên tránh vì nó gây ra các bệnh về dinh dưỡng dẫn đến thiệt hại không thể khắc phục.
Thức ăn nên được xử lý đúng cách và được cung cấp nhiều lần mỗi ngày để duy trì chức năng dạ cỏ bình thường và cải thiện sự sử dụng.
Vật nuôi trong các hoạt động nuôi dưỡng bị nhốt nên được vận động một khoảng thời gian mỗi ngày để cải thiện khả năng tiêu hóa và sử dụng các chất dinh dưỡng của thức ăn. Cũng cần xem xét rằng phản ứng của vật đối với thức ăn có thể thay đổi bởi vì những thay đổi sinh lý liên quan đến tuổi và việc phân chia khẩu phần cần được điều chỉnh cho phù hợp.
Stress nhiệt ảnh hưởng xấu đến việc sử dụng thức ăn và sản xuất sữa và do đó, nên giảm bớt bằng các biện pháp vận dụng khéo vào khẩu phần (bổ sung chất đệm có thêm chất béo, protein và khoáng chất), và cũng bằng cách điều chỉnh môi trường tiểu khí hậu (bóng mát, vòi phun nước, v.v.).
Việc vật nuôi tiếp xúc với stress tiếng ồn cũng ảnh hưởng đến nhai lại và quá trình trao đổi chất. Trong trường hợp không thể tránh được stress tiếng ồn, việc bổ sung thức ăn có thêm chất chống oxy hóa có thể giúp giảm bớt các phản ứng trao đổi chất có hại liên quan đến tiếng ồn.
Vật nuôi phải luôn được duy trì trong tình trạng sức khỏe tốt. Chúng cũng cần được xử lý phòng ngừa nội ký sinh trùng bằng phương pháp tẩy giun và quản lý đồng cỏ thích hợp để giảm thiểu ảnh hưởng của các nội ký sinh trong việc sử dụng thức ăn và năng suất của vật nuôi. Tương tự, các ngoại ký sinh trùng cần được kiểm soát chặt chẽ thông qua việc sử dụng thuốc trừ côn trùng. Tuy nhiên, điều này cần được thực hiện dưới sự giám sát của bác sĩ thú y, người sẽ hướng dẫn việc xử lý tùy thuộc vào mức độ xâm nhiễm, độ tuổi và sức khỏe của vật nuôi.

BỆNH CƯỚC CHÂN TRÊN TRÂU BÒ VÀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ
1. Bệnh cước chân là gì
Bệnh cước chân là bệnh sưng thũng chân do co thắt mao mạch ngoại vi ở chân trâu, bò. Bệnh xuất hiện vào các tháng mùa đông và đầu mùa xuân khi thời tiết lạnh ẩm kéo dài ở các tỉnh thành phía Bắc. Bệnh không gây chết nhưng trâu, bò không đi lại được và có thể hoại tử chân. Điều này làm giảm giá trị của trâu bò và dễ xuất hiện các căn bệnh kế phát.
2. Nguyên nhân
Khi thời tiết lạnh ẩm kéo dài cộng với nền chuồng ẩm ướt mất vệ sinh mà trâu bò phải đứng trên chuồng nuôi với thời gian dài sẽ làm cho chân trâu, bò bị tê cóng dân đến hệ thống mao mạch ở chân bị co lại, kém lưu thông máu, gây tắc nghẽn dẫn đến bệnh cước chân.
Môi trường ẩm ướt: Đây là điều kiện lý tưởng để các vi khuẩn và nấm phát triển và gây nhiễm trùng móng của trâu bò.
Tiếp xúc với nước bẩn: Trâu bò thường xuyên phải đi qua các môi trường bẩn như đầm lầy, ao hồ, điều này có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây bệnh cước chân.
Tổn thương móng: Móng bị tổn thương, chẻ ngang hoặc có vết thương do va đập hoặc do không chăm sóc móng đúng cách.
Vi khuẩn và nấm: Các loại vi khuẩn như Fusobacterium necrophorum và các loài nấm như Dermatophilus congolensis thường là nguyên nhân gây nhiễm trùng.
3.Triệu chứng
Chân trâu, bò sưng ở độ nhẹ có hiện tượng đi chậm chạp, khập khiễng không vững có thể sưng ở một chân hoặc hai châ
Nặng có thể làm cho chân trâu, bò bị phù nề, dịch xuất tiết nhiều gây sưng tấy, nhiều vết tím đỏ, hoặc có vết nứt da, rỉ nước màu vàng, hệ thống mao mạch ở vùng bàn chân bị tắc làm cho vùng da xung quanh móng và bàn chân bị hoại tử khiến trâu, bò què nằm tại chỗ.
4. Phòng bệnh̀ng bệnh
Khi thời tiết lạnh ẩm kéo dài, nhiệt độ ngoài trời dưới 10 độ C thì không thả trâu bò ngoài trời, cần đưa trâu, bò về chuồng nuôi nhốt và chăm sóc.
Thực hiện công tác chống rét bằng cách che kín chuồng trại, tránh gió lùa và đặc biệt phải giữ cho nền chuồng luôn khô sạch.
Chăm sóc cho đàn trâu, bò tốt để nâng cao sức đề kháng chống bệnh tật và chống lại thời tiết giá rét.
Những ngày thời tiết xuống dưới 10 độ C thì cần pha nước ấm với muối 0,9% cho trâu, bò uống.
Chuồng trại: Gia cố, tu sửa, đảm bảo chuồng trại đủ ấm, cao ráo, sạch sẽ, không bị gió lùa, mưa hắt làm ẩm ướt nền chuồng. Cần dự trữ chất đốt như củi, trấu, mùn cưa… để sưởi ấm cho trâu, bò (lưu ý cần có ống khói ra ngoài để tránh ngạt).
5. Điều trị
Khi trâu, bò bị cước chân cần phải rửa sạch, lau khô chân cho chúng. Dùng gừng hoặc riềng giã nhỏ, sao nóng cho vào túi vải chườm vào chỗ sưng để tan máu tụ nhằm lưu thông mạch máu trở lại, 1 ngày thực hiện 2 lần.
Nếu chỗ cước đã nhiễm trùng phải rửa sạch bằng dung dịch thuốc tím 1% sau đó rắc bột Tetracycline hoặc Sunfamid.
Trường hợp bệnh nặng, cần cắt bỏ những tổ chức hoại tử sau đó mới điều trị. Tiêm bắp một trong các loại kháng sinh sau NASHER AMX 1ml/10 – 15kg trọng lượng/ngày; kết hợp hạ sốt giảm đau và trợ sức, trợ lực: tiêm bắp NASHER TOL 1mL/20 kg TT, ACTIVITON 1ml/15-20Kg TT . Điều trị liên tục 5 – 7 ngày sẽ khỏi bệnh.

BỆNH LỞ MỒM LONG MÓNG TRÊN GIA SÚC
Trâu, bò mệt mỏi, ủ rũ, lông dựng, sốt 41-42OC kéo dài trong 2-3 ngày, sau đó xuất hiện các mụn nước ở niêm mạc miệng, chân và da chỗ mỏng, lưỡi dày lên, sưng to khó cử động, sau vài ngày mụn nước vỡ ra làm cho miệng bị loét, trâu bò không ăn được, dịch viêm từ các mụn nước hoà với nước dãi liên tục chảy ra giống như bọt xà phòng. Trong mũi xuất hiện nhiều mụn nước, nước mũi chảy ra có mùi hôi thối.
Ở chân, nhất là xung quanh vành móng cũng xuất hiện rất nhiều mụn nước làm thành những vết loét. Nếu vệ sinh không tốt sẽ bị nhiễm trùng tạo thành những ổ loét làm móng bị bong ra.
ở vú gia súc cái, thường bị mọc mụn ở núm, đầu vú, toàn bộ vú bị sưng, đau, con cái đang nuôi con sẽ ít cho con bú vì đau và sữa bị cạn dần.
Thể nặng: bê <6 tháng có thể chết đột ngột do thoái hóa cơ tim.
Con vật tiêu chảy nặng, xuất huyết đường tiêu hóa, viêm phế quản và viêm phổi.

BỆNH SÁN LÁ GAN Ở TRÂU BÒ
Thể cấp tính:
Trâu, bò bỏ ăn, chướng hơi dạ cỏ, sau đó ỉa chảy dữ dội, phân lỏng màu vàng xám, mùi tanh. Chỉ vài ngày sau, súc vật bệnh nằm bệt không đi lại được, nếu không được điều trị kịp thời con vật có thể chết trong tình trạng mất nước, rối loạn điện giải và kiệt sức làm trụy tim mạch , khô máu. Hiện tượng này thường xảy ra ở bê, nghé dưới 1 năm tuổi.
Thể mãn tính:
Trâu, bò bị bệnh sẽ gầy dần, cơ thể suy nhược, ăn ít, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù, dễ rụng, thường thủy thũng ở mi mắt, yếm ngực, nhai lại yếu, thiếu máu, chướng bụng nhẹ, ỉa chảy kéo dài, có khi ỉa táo bón, đôi khi có triệu chứng thần kinh. Gia súc cái mất dần khả năng sinh sản và cho sữa. Trâu, bò cho sữa bị bệnh thì lượng sữa giảm tới 20 – 50%. Trâu, bò có thể chết do kiệt sức.
Người chăn nuôi cũng cần phân biệt các triệu chứng trên với bệnh ký sinh trùng đường máu đó là: trâu bò mắc bệnh ký sinh trùng đường máu cũng có các biểu hiện như: gầy yếu, thiếu máu, sản lượng sữa giảm, hoàng đản, tiêu chảy. Nhưng bệnh ký sinh trùng đường máu trâu, bò thường sốt 40 – 420C, khi sốt cao thường thể hiện triệu chứng thần kinh: quay cuồng, đi vòng tròn, run rẩy từng cơn. Trong khi bệnh sán lá gan trâu, bò thường ỉa chảy kéo dài, viêm ruột, phân lỏng xám có mùi tanh.

BỆNH LAO BÒ
Lao phổi
Thể bệnh hay gặp, với các triệu chứng ho, lúc đầu ho khan sau ho ướt, ho từng cơn.
Con vật ho khi gõ lồng ngực, bị đuổi chạy, uống nước lạnh, nằm xuống, đứng lên.
Ho ra đờm con vật lại nuốt vào, đờm lẫn máu mủ.
Bò gầy gò, lông dựng, da khô, mệt mỏi, ăn ít, thở khó ngày càng tăng. Nghe và gõ vùng phổi thấy âm dục phân tán, âm bùng hơi và âm ran ướt.
Lao hạch
Thể bệnh khá phổ biến. Nếu lao ở phổi thì hạch phổi cũng bị lao, hạch bị sưng thành từng cục cứng.
Các hạch hay bị lao: hạch dưới hàm, hạch trước vai, hạch trước đùi, hạch ruột.
Lao vú
Tùy mức độ bệnh mà bầu vú hoặc núm vú có thể bị biến dạng. Sờ vào có thể thấy những hạt lao lổn nhổn.
Hạch vú sưng to, cứng nổi cục.
Sản lượng sữa giảm.
Lao đường tiêu hóa:
Phổ biến lao ở ruột, gan.
Gia súc tiêu chảy kéo dài, gầy dần, có chướng hơi nhẹ và rối loạn tiêu hóa.

TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ
Trâu, bò thường mắc bệnh ở 3 thể sau đây:
Thể ác tính
Thể này thường ít gặp. Trâu, bò phát bệnh rất nhanh.
Con vật đột nhiên lên cơn sốt cao 41 - 42°C và trở nên hung dữ, điên loạn, đập đầu vào tường và chết trong vòng 24 giờ. Bê nghé 3 - 18 tháng thể hiện triệu chứng thần kinh: giãy giụa, ngã vật xuống rồi chết, có khi con vật đang ăn bỗng chạy lồng lên, điên loạn, run rẩy, ngã xuống rồi lịm đi.
Thể cấp tính
Thể này xảy ra phổ biến ở trâu, bò. Thời gian ủ bệnh ngắn từ 1 - 3 ngày, con vật không nhai lại, mệt lả, bứt rứt, sốt cao đột ngột 40 - 42°C. Các niêm mạc mắt, mũi đỏ sẫm rồi tái xám. Nước mắt, nước mũi chảy liên tục. Các hạch lâm ba đều sưng, đặc biệt là hạch dưới hầu sưng rất to, làm cho con vật lè lưỡi ra, thở khó khăn, người ta thường gọi là bệnh "trâu bò hai lưỡi". Hạch lâm ba trước vai, trước đùi sưng, thuỷ thũng, làm cho con vật đi lại khó khăn.
Vật bệnh thể hiện hội chứng hô hấp, thở mạnh và khó khăn do viêm màng phổi, tràn dịch màng phổi, có tụ huyết và viêm phổi cấp.
Một số trâu bò bị bệnh thể đường ruột, lúc đầu phân táo bón, sau đó ỉa chảy dữ dội, phân có lẫn máu và niêm mạc ruột. Bụng con vật chướng to do viêm phúc mạc và có tương dịch trong xoang bụng.
Lúc sắp chết, con vật nằm liệt, đái ra máu, thở rất khó khăn, có nhiều chấm xuất huyết đỏ sẫm ở các niêm mạc. Bệnh tiến triển 3 - 5 ngày. Tỷ lệ chết 90 - 100%. Nếu bệnh chuyển sang nhiễm trùng máu thì con vật sẽ chết trong 24 - 36 giờ.
Thể mạn tính
Con vật mắc bệnh ở thể cấp tính, nếu không chết, bệnh sẽ chuyển thành mạn tính, vật bệnh thể hiện viêm ruột mạn tính: lúc ỉa chảy, lúc táo bón, viêm khớp làm cho con vật đi lại khó khăn, viêm phế quản và viêm phổi mạn tính.
Bệnh tiến triển trong vài tuần. Con vật có thể khỏi bệnh, các triệu chứng nhẹ dần, nhưng thường con vật gầy rạc và chết do kiệt sức.

VIÊM TỬ CUNG TRÂU BÒ
Tùy theo mức độ tổn thương, loại vi khuẩn, mức độ phát triển và hoạt động của vi khuẩn, sự rối loạn chức năng sinh lý và nội tiết mà có các triệu chứng lâm sàng khác nhau. Căn cứ mức độ viêm nặng hay nhẹ có thể phân loại như sau:
Viêm nội mạc tử cung mức độ 1 (Viêm cata đơn)
Gia súc động dục bình thường, dịch tiết khi động dục có thể có những gợn trắng ở niêm dịch, niêm dịch khác thường, không đồng nhất. Cổ tử cung sưng, tụ huyết, khám trực tràng không thể phân biệt được tử cung bị bệnh hay động dục.
Viêm nội mạc tử cung mức độ 2 (Viêm nội mạc niêm dịch có mủ)
Gia súc không động dục bình thường, niêm dịch có mủ, cổ tử cung mở rộng hay hé mở và sung huyết, sừng tử cung cong, cứng, dày. Buồng trứng bình thường, có thể vàng lưu bệnh lý.
Viêm nội mạc tử cung mức độ 3 (Viêm nội mạc có mủ)
Viêm tử cung mức độ 3 bao gồm: Viêm cổ tử cung, viêm âm đạo và không chỉ nội mạc tử cung bị rối loạn sinh lý và tổn thương mà cả cơ trơn cũng bị viêm. Gia súc ngưng động dục, mủ chảy ra ngoài, nhiều nhất là lúc nằm. Cổ tử cung sưng, mở rộng hay hé mở, niêm mạc âm đạo sung huyết và có phủ màu trắng hay trắng vàng. Khám trực tràng thấy sừng tử cung sưng to, thành tử cung dày, tử cung kéo dài (nhất là trâu, bò cái già), buồng trứng có thể vàng lưu bệnh lý.
Viêm tử cung tích mủ
Gia súc không động dục và thường nhầm với gia súc có chửa, có thể có trường hợp chảy mủ ra ngoài. Khám âm đạo thấy âm đạo kéo dài về phía xoang bụng vì sức nặng của tử cung chứa mủ. Cổ tử cung có thể đóng lại và bịt kín bằng dịch mủ như có chửa hoặc bị phủ chất nhầy, mủ.
Cổ tử cung và âm đạo viêm, khám trực tràng thấy hai sừng tử cung tăng dung tích và kích thước. Tử cung sa xuống xoang bụng nhiều hay ít tùy thuộc và lượng mủ tích trong đó (có trường hợp 15-20 lít mủ). Khi khám có thể nhầm với có chửa nhưng không thấy có thai, không có núm nhau, không cảm nhận có nhịp đập của động mạch giữa tử cung, ở buồng trứng có thể vàng tồn tại.

BỆNH GIUN ĐŨA BÊ NGHÉ
Trong thời gian ấu trùng di hành bê, nghé có thể bị viêm phổi, ho, sốt. khi giun về cư trú ở ruột phát triển thành bệnh, bê nghé có dáng đi lù đù, chậm chạp, lưng cong, cúi đầu, đuôi cụp, thân nhiệt tăng cao 40-41 độ C
Bê nghé ăn ít hoặc bỏ ăn, nằm 1 chỗ, hơi thở yếu
Biểu hiện đau bụng: bê nghé nằm ngửa, dùng chân đạp vào bụng, dãy dụa, lắng nghe vùng bụng thấy tiếng sôi bụng
Tiêu chảy: ban đầu tiêu chảy, phân lổn nhổn, màu đen chuyển dần sang mầu vàng, có lẫn máu và chất nhờn, rồi chuyển sang màu vàng sẫm, cuối cùng có màu trắng. phân có mùi tanh khắm rất thối, nhiều nước dính ở hậu môn, xung quanh mông và khoeo chân
Thể trạng: gầy sút nhanh, lông xù niêm mạc nhợt nhạt mắt lờ đờ, mũi khô, hơi thở thối
Môi trường chăn nuôi
