Bệnh theo hệ cơ quan
- Heo cai sữa và heo hậu bị chậm lớn, giảm ăn, uống nước nhiều.
- Bệnh phát ra khi trên da heo xuất hiện các đốm đỏ nhỏ như muỗi cắn, tập trung tại các vùng da mỏng, sau đó sẽ lan dần sang các vùng da khác, với đặc điểm đối xứng qua đường giữa lưng và đường trắng dưới bụng. Các triệu chứng rõ ràng hơn khi ở vùng chân dưới và trên lưng. Ngoài ra các triệu chứng đôi khi cũng có thể thấy ở các vùng xung quanh mắt, tai, mõm và đuôi, cuối cùng là lan ra toàn bộ cơ thể.
- Trong thời gian này do sức đề kháng của da yếu, vi khuẩn, nấm da, cái ghẻ, kí sinh trùng sẽ phụ nhiễm, gây tổn thương các điểm đỏ làm mở rộng các điểm này, tạo nên vùng hoại tử lớn, hoặc rất nhiều vùng hoại tử nhỏ trên da, dịch viêm từ vết thương chảy ra tạo thành lớp vảy, đóng trên da.
- Heo bị rụng lông và lở loét mặt ngoài da giống như bị ghẻ, nấm, và viêm da tiết dịch, điểm khác biệt là nó không bị ngứa như bị ghẻ hoặc nấm. Đối với viêm da tiết dịch thì thường xảy ra ở những con heo non hơn, con nhỏ hơn. Nếu bị nhiễm trùng, các nốt loét sinh mủ dày lên thành mảng.
- Triệu chứng thiếu kẽm thường gặp ở heo nái là lông dễ rụng, phối nhiều lần không thể đậu thai, trong khi heo vẫn ăn uống bình thường, không bị sốt. Hiện tượng này dễ gặp ở heo nái nuôi tại vùng núi phía Bắc.
- Triệu chứng thứ hai là khi heo đang có chửa hay bị viêm da do thiếu kẽm (hiện tượng này thường xảy ra ở heo giống nội), sau khi đẻ xong hiện tượng này hết.
- Khi kiểm tra và điều chỉnh lại chế độ dinh dưỡng thì những vùng da viêm tự khỏi.
BỆNH VIÊM TEO MŨI TRUYỀN NHIỄM (PAR)
Triệu chứng đầu tiên: ho, hắt hơi, và có dịch mũi chảy ra
Nái
Không có dấu hiệu lâm sàng.
Mũi biến dạng: xương hàm trên bị ngắn hơn so với hàm dưới
Heo nái bị xuất huyết mũi vào thời kì thai cuối có thể ảnh hưởng đến thai
Heo con theo mẹ, heo cai sữa và heo choai
Hắt hơi, hắt hơi ra máu, thở khụt khịt
Chảy nước mắt thành dòng
Mũi bị vẹo, co lại và nhăn nheo.
Nước mũi chảy nhiều có dịch nhày, có mủ
Tăng trọng và tăng trưởng hàng ngày giảm.
Hệ số chuyển đổi thức ăn tăng lên.
Gia tăng các bệnh đường hô hấp.
BỆNH MỚI 3
Tổng đàn ủ rũ, ăn kém, ăn không hết khẩu phần với các triệu chứng: Thở yếu, khó thở, khò khè và có âm rale. Chảy nước mũi, hắt hơi, có bọt khí ở mắt. Đầu lúc lắc,”ngáp”, mắt sưng hơi hum húp, má sệ, mặt sưng. Khớp sưng, quèo, đi lại khó khăn, nằm một chỗ, rối loạn vận động, không ăn, uống và chết. Gà đẻ giảm, trứng không đều, vỏ mỏng – mất màu, đễ vỡ và tỷ lệ ấp nở giảm.
BỆNH CÚM THỦY CẦM – BIRD FLU
Con vật sốt cao 43 – 45oC, thở khó, uống nhiều nước, mệt mỏi, ủ rũ, lông xù, mất tính thèm ăn. Ho, hắt hơi, khò khè, chảy nước mắt, nước mũi. Đi loạng choạng, run rẩy, đầu lắc lư, quay cuồng khi bị xua đổi, mệt mỏi nằm lì, tụm đống lên nhau. Tiêu chảy, phân loãng trắng, xanh. Xuất huyết: ở mào, yếm (gà dưới 2 tháng tuổi mào, yếm, thâm tím lại; gà trên 2 tháng tuổi mào, yếm thâm tím và có xuất huyết hoại tử ở rìa mào, ở dưới da, da chân, kẽ ngon chân). Tỷ lệ bệnh và chết rất cao. Giảm sản lượng và chất lượng trứng đột ngột.
BỆNH DỊCH TẢ VỊT – DUCK PEST
Vịt nung bệnh thường từ 3 – 7 ngày. Đôi khi ở đầu ổ dịch có một số con chết đột ngột khi chưa biểu hiện một triệu chứng. Vịt uể oải, nằm bẹp trên mặt đất, cánh sã, đi lại chậm chạp, không bơi lội theo đàn. Một số con viêm kết mạc mắt, mắt ướt (chảy nước mắt), thuỷ tinh thể bị đục và bị mù. Dịch mũi nhiều và bám nhiều chất dơ bẩn, vịt con mỏ nhợt nhạt. Vịt rụng lông, kêu khàn khàn (do vòm họng bị tổn thương). Vịt bỏ ăn, tiêu chảy phân vàng xanh, đôi khi lẫn máu và vùng quanh lỗ huyệt rất thối. Vịt sợ ánh sáng, một số con có biểu hiện thần kinh, tỳ mỏ xuống đất, dương vật con đực thò ra ngoài và niêm mạc có nốt loét, đầu sưng do viêm não gây phù dưới da. Bệnh có tỷ lệ chết rất cao từ 30 – 90%, vịt đẻ sản lượng trứng giảm từ 30 – 60%.
BỆNH VIÊM GAN VỊT – DUCK HEPATITIS
Bệnh xảy ra đột ngột trong giai đoạn 1 – 15 ngày tuổi. Vịt ít vận động, buồn ngủ, bỏ ăn, cánh sã. Một số trường hợp tiêu chảy, sau một vài giờ thấy niêm mạc miệng xanh tím và co giật. Vịt chỉ ngồi sau nằm liệt, nghiêng sườn hoặc nằm ngửa, chân duỗi thẳng dọc theo thân, đầu ngẹo lên lưng hoặc sang bên sườn hoặc chết ở tư thế trên. Những con bệnh có triệu chứng đa số là bị chết. Mức chết ở mỗi giai đoạn khác nhau, tuỳ thuộc vào khả năng chăm sóc, vệ sinh chuồng trại và sự kế phát các bệnh khác. Bệnh gây chết nhanh tập trung trong vòng 2 – 3 ngày. Tỷ lệ chết cao 20 – 80%.
BỆNH RỤT MỎ TRÊN VỊT – DERZSY’S
Thể quá cấp tính: Thường xảy ra ở ngan, ngỗng non 1 – 3 tuần tuổi chết đột ngột, không rõ triệu chứng.
Thể cấp tính: Con vật bỏ ăn, sốt cao 45 – 46oC, chảy dịch mũi, nước mắt liên tục, thở khó, khẹc mũi. Vịt 2 – 5 ngày tuổi: Tiêu chảy, phân trắng xanh, có mùi tanh, dính bết hậu môn, nằm bệt và có thể chết 100%. Vịt, ngan, ngỗng 2 – 3 tuần tuổi: Tỷ lệ chết ở có thể dưới 10%, mặc dù mức độ nhiễm bệnh có thể cao
Thể á cấp tính: Thường gặp ở vịt ngan già hoặc trưởng thành, xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng kéo dài hơn: Ban đầu con vật biểu hiện chán ăn, chảy nước và cơ yếu di chuyển miễn cưỡng. Có dịch ở mắt và mũi. Mí mắt sưng và có màu đỏ. Tiêu chảy phân trắng có thể thấy rõ ở nhiều loài thuỷ cầm. Lưỡi và xoang miệng phủ màng giả firbin. Con vật sống sót qua giai đoạn cấp tính có thể sống, nhưng bệnh kéo dài hơn. Xương giòn, dễ gãy và bại liệt
Thể mạn tính: Trong đàn, có nhiều con còi cọc, mỏ ngắn, thè lưỡi, chân đứng không vững do bị dị dạng. Mất lông quanh lưng, cổ và đỏ da rõ rệt. Chất lỏng ascitic có thể được tích tụ trong bụng, khiến cho những con vật đứng trong tư thế giống chim cánh cụt. Vịt phân đàn mạnh, độ đồng đều rất thấp.
BỆNH NẤM TRÊN VỊT – NGAN
Biểu hiện khi vịt bị nấm phổi: Vịt khó thở, thở hổn hển, thở gấp, vươn dài cổ và há miệng khi thở. Giảm ăn, uống nhiều nước, thân nhiệt tăng, tiêu chảy hôi thối, phân màu hơi xanh dính vào hậu môn. Giảm đẻ hoặc ngừng đẻ. Có triệu chứng thần kinh, quay vòng, bại chân, vịt không bơi, không đi được. Vịt khô chân, khô mỏ. Bên trong xoang mũi có những nốt nấm màu trắng đục. Thường tỷ lệ chết thấp, nhưng khi kế phát bệnh bại huyết do Riemerella anatipestifer, E. coli, thương hàn hoặc tụ huyết trùng… thì tỷ lệ chết tăng cao.
Biểu hiện khi vịt bị nấm diều: Vịt có hơi thở hôi, giảm ăn, xù lông, chậm lớn. Tiêu chảy phân sống, nôn ói thức ăn có mùi chua, hôi thối. Trong miệng có lớp mảng bám màu trắng, niêm mạc miệng, thực quản có thể bị loét.
BỆNH THƯƠNG HÀN TRÊN VỊT – NGAN
Nếu nhiễm bệnh từ mẹ hoặc từ vỏ trứng vào phôi thì phôi bị chết trước khi nở (trứng sát). Nếu nhiễm ít, khi nở ra vịt con có triệu chứng: Sã cánh, rụt cổ, rụng lông, tiêu chảy phân trắng, phân dính hậu môn màu trắng, vịt đứng chụm lại gần đèn sưởi. Viêm khớp nên đi cà nhắc hoặc bại liệt. Sản lượng trứng giảm và tỷ lệ chết phôi tăng.
BỆNH E. COLI TRÊN VỊT – NGAN
Vịt 3 – 15 ngày tuổi: Mẫn cảm nhất với bệnh. Biểu hiện của bệnh: Vịt bị rút cổ, lông xù, mắt lim dim, sổ mũi, khó thở, tiêu chảy phân loãng có màu trắng xanh rồi chết. Trước khi chết có triệu chứng thần kinh như: co giật, quay đầu, ngoẹo cổ… Tỷ lệ chết có thể đến 60%, những con sống sót thường còi cọc, chậm lớn và tiêu tốn thức ăn cao.
Vịt đẻ: Triệu chứng bại liệt do viêm khớp. Giảm đẻ, vỏ trứng có vết máu và phôi thường bị chết (trứng sát). Vịt đẻ chết rải rác.
BỆNH HUYẾT TRÙNG TRÊN VỊT – NGAN
Thể cấp tính: Bệnh gây chết đột ngột, chết rất nhanh (sau bữa ăn…) nên không kịp có biểu hiện triệu chứng.
Thể mãn tính: Vịt chết sau 2 – 5 ngày bị bệnh với các triệu chứng Sốt 43 – 44oC, chảy nước mắt, mũi, tiêu chảy, lông xung quang hậu môn dinh bẩn màu xanh, xác vịt gầy ốm rất nhanh và không đứng vững, thường rớt lại phía sau khi cả đàn di chuyển. Nếu bị xua đuổi, vịt thường loạng choạng đi từng bước một, sau đó ngã lăn ra và ngửa bụng. Một số vịt bơi vòng quanh, số khác thì đầu và cổ run rẩy, có con bị sưng 2 bên hoặc 2 bên mặt, khó thở, một số bị sưng khớp, một số khác bị nghẹt cổ hoặc vẹo đuôi. Tỷ lệ chết từ 5 – 80% tuỳ thuộc vào độc lực của vi khuẩn và điều kiện môi trường.
BỆNH GIẢ DẠI TRÊN HEO – AUJESZKY
Heo co giật, xuất hiện hiện tượng sùi bọt mép, liệt hoặc vận động vô định, đi siêu vẹo, quay tròn, mất cân bằng do bị tổn thương hệ thần kinh trung ương
Thể trạng: ốm sốt cao khỏng 42 độ, ủ rũ, bỏ ăn hoặc kém ăn, nôn hoặc buồn nôn
Heo bị giãn đồng tử mắt nên mất khả năng thị giác
Heo có hiện tượng dễ bị kích thích, cực kỳ mẫn cảm với tác động bên ngoài: ví dụ động vào heo, thì heo sẽ rít lên. Về sau, hiện tượng này giảm xuống. Heo bị lạc giọng, mất tiếng do liệt các dây chằng cuống họng
Heo có dáng chân giống bơi chèo do mông và sụn lưng yếu
Heo nái: có hiện tượng động dục giả hoặc không có hiện tượng động dục, khi phối, nhiều lần khồng đạt
Heo bầu: sảy thai; chết lưu thai; heo con sinh ra gầy yếu, chân bơi chèo, xoạc chân, và dễ chết non sau sinh
Heo đực: chất lượng tinh trùng giảm và tinh hoàn bị sưng
BỆNH PPRS TRÊN HEO – PORCINE REPRODUCTIVE AND RESPYRATORY SYNDROME
Heo nái:
Heo biếng ăn, sốt 39-40 độ
Sảy thai thường gặp vào gian đoạn cuối
Tai chuyển màu xanh trong thời gian ngắn
Heo bị đẻ non, động dục giả( 3-5 tuần sau thụ tinh)
Chậm động dục sau đẻ
Heo ho và có dấu hiệu của viêm phổi
Heo nái giai đoạn đẻ và nuôi con có hiện tượng biếng ăn, lười uống nước, mất sữa và viêm vú
Heo đẻ ra da biến màu, lờ đờ hoặc hôn mê, thai gỗ( 10-15% thai chết trong 3-4 tuần cuối thai kỳ)
Heo con chết ngay sau khi sinh(30%), heo con yếu, tai chuyển màu xanh duy trì trong vài giờ
Heo đực giống
Con vật bỏ ăn, sốt lờ đờ, ủ rũ, có triệu chứng ho hấp, giảm hưng phấn hoặc mất tính dục, lượng tinh dịch ít, chất lượng tinh kém và con sinh ra nhỏ
Heo con theo mẹ
Thể trạng gầy yếu, mắt có dử màu nâu, trên da có vết phòng rộp
Tiêu chảy nhiều; tỉ lệ con sống sót giảm, tăng nguy cơ mắc các bệnh về hô hấp. Chân choãi ra, run rẩy
Tỉ lệ chết có thể từ 12-15%, thận chó lên đến 100% nếu mức bệnh dạng độc lực cao
Heo con cai sữa và heo choai
Heo chán ăn bỏ ăn
Lông xơ xác dựng ngược
Thể trạng: gầy yếu, da xanh,
Heo bị tiêu chảy, hắt hơi, chảy nước mắt; thở nhanh, thở khó; giảm tăng trọng
Tỉ lệ chết: 12-20%
Thể độc lực cao: heo sốt cao 40-42 độ c, kéo dài, giảm cân nhanh chóng, tỉ lệ chết cao
BỆNH TRÚNG ĐỘC DO FORMALDEHYDE
Formaldehyde hay còn gọi là formon. Dung dịch thường ở nồng độ 36-40%. Màu trong suốt và vị rất cay. Tan trong nước, vì vậy thuốc dùng để sát trùng chuồng trại, lò ấp. Thuốc dễ gây kích ứng với da và niêm mạc nên khi xử lý chuồng trại hay gây ngộ độc cho gà.
1. Triệu chứng
Gà khó thở và thở hổn hển.
Mắt bị viêm kết mạc và loét giác mạc nên bị chảy nước mắt, kéo màng trắng.
2. Bệnh tích
Sung huyết đường hô hấp từ niêm mạc mũi vào tới khí quản.
Đường tiêu hoá cũng bị viêm, từ phần thực quản tới diều.
3. Biện pháp xử lý
Những lò ấp khi xử lý formon xong phải hết hơi mới đưa trứng vào ấp.
Khi xử lý chuồng nuôi phải nhốt riêng gà ra nơi khác. Không được phun vào gà.
Khi gà bị nhiễm độc, mà trong chuồng nuôi hay lò ấp còn hơi formon thì phải dùng hơi amoniac trung hoà.
BỆNH TRÚNG ĐỘC KHÍ CO
Lượng khí CO được sinh ra do đốt đèn dầu trong quá trình sưởi úm cho gà. Nếu lượng khí CO nhiều vượt quá nồng độ 40ppm/m3 sẽ làm cho gà trúng độc và chết.
1. Nguyên nhân
Do dùng đèn dầu sưởi úm để bốc khói quá nhiều. Trong khi đó lại che đậy xung quanh và trên nóc chuồng úm quá kín, không có khe hở hoặc lỗ thông hơi ra bên ngoài.
2. Triệu chứng và bệnh tích
Gà con thờ thẫn, loạng choạng sau đó co giật và chết.
Mổ khám thấy phổi đỏ.
3. Biện pháp phòng bệnh
Khi dùng đèn dầu để sưởi úm cho gà ta nên dùng đèn có ngọn lửa vừa phải, ít khói và không được che đậy phía trên chuồng úm quá kín. Phải để nhiều khe hở cho không khí lưu thông và khí CO thoát ra ngoài.