Ảnh hưởng trực tiếp của độc tố nấm mốc lên sức khỏe động vật bây giờ đã đuợc biết rõ hơn. Những ảnh huởng của chúng lên hệ miễn dịch mở ra cánh cửa cho virus thường ít được thảo luận, Có nhiều lí do để nghi ngờ rằng chúng đóng vai trò nào đó trong bệnh do PRRSv, PCV2 và PENS (Porcine Ear Necrosis Syndrome). Độc tố nấm mốc là những chất biến duỡng thứ cấp khác nhau do nấm sinh ra khi phát triển trong thức ăn cho động vật. Việc hấp thụ độc tố nấm mốc, tuy ở mức chưa gây bệnh lý lâm sàng rõ rệt, có thể ức chế chức năng miễn dịch và làm giảm sức đề kháng đối với các bệnh truyền nhiễm. Sự mẫn cảm của hệ thống miễn dịch đối với độc tố nấm mốc gây suy giảm miễn dịch xuất phát từ sự nhạy cảm của các tế bào có chức năng điều hoà miễn dịch trong quá trình tăng sinh và biệt hoá liên tục của chúng.
Suy giảm miễn dịch do độc tố nấm mốc làm giảm hoạt động của tế bào T, B, suy giảm sự sản xuất globulin miễn dịch và kháng thể, giảm hoạt động của bổ thể hoặc Interferon và suy giảm chức năng tế bào đại thực bào. Mặc dù cơ chế tác động gây suy giảm miễn dịch đặc hiệu của độc tố nấm mốc hiện nay chưa rõ ràng, nhưng sự ức chế tổng hợp DNA, RNA và protein thông qua một loạt các cơ chế khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới tác động suy giảm miễn dịch của nhiều độc tố nấm mốc.
Miễn dịch đường tiêu hóa
Deoxynivalenol (DON) thuộc nhóm độc tố nấm mốc trichothecene, được sản sinh bởi các loài nấm mốc Fusarium. Trong số các loài động vật dạ dày đơn, heo là loài cảm nhiễm nhất với DON, độc tố làm giảm lượng thức ăn và giảm tăng trọng rõ rệt. DON cũng đã được ghi nhận là có thể làm tăng sự cảm nhiễm với virus. Thiệt hại kinh tế do độc tố nấm mốc là không thể xác định chính xác, nhưng Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) ước tính, thu hoạch nông sản tại Mỹ thiệt hại trung bình hàng năm do độc tố nấm mốc aflatoxin, fumonisins và deoxynivalenol vào khoảng 932 triệu đô Mỹ.
Niêm mạc ruột đóng vai trò như một rào cản, ngăn chặn sự xâm nhập của kháng nguyên từ bên ngoài, bao gồm protein trong thực phẩm, thuốc, độc tố, vi sinh vật cộng sinh và các mầm bệnh, vào các mô. Theo đường ăn uống, một lượng deoxynivalenol từ thấp đến trung bình sẽ tiếp xúc trước nhất với các lớp tế bào biểu mô dạ dày-ruột. Miễn dịch niêm mạc bao gồm hệ thống miễn dịch bẩm sinh và thu được có thể bị ảnh hưởng bởi DON. Các thành phần quan trọng của hệ miễn dịch bẩm sinh là các tế bào biểu mô ruột, chúng được kết với nhau bằng các liên kết chắc chắn và được phủ chất nhầy sản xuất bởi các tế bào goblet trên niêm mạc ruột. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, DON có thể làm tăng tính thấm của lớp biểu mô ruột heo và ảnh hưởng đến khả năng tồn tại và phát triển của các tế bào biểu mô ruột. Một số độc tố nấm mốc cũng có khả năng điều tiết việc sản xuất các cytokine, trong khi DON làm tăng sự sản sinh TGF-β và IFN-γ trong các tế bào biểu mô ruột. Ở cấp độ tế bào, độc tính chính của DON là sự ức chế tổng hợp protein bằng cách làm gián đoạn tổng hợp DNA và RNA. DON ảnh quan trọng đến sự phân chia của các tế bào, bao gồm những tế bào trên bề mặt đường tiêu hóa. Cần lưu ý rằng DON do gây ra quá trình chết tế bào trên đường tiêu hoá, làm biến đổi niêm mạc dạ dày, biểu mô hạt dạ dày và tế bào khe ruột.
Ảnh hưởng nhiều hơn đối với virus
Độc tố nấm mốc Fusarium, bao gồm DON, làm giảm khả năng loại bỏ Reovirus ở ruột.
PRRSv
Virus PRRS là một loại virus lây nhiễm cao, nhân lên trong các bạch cầu đơn nhân
Virus PED
Cơ chế phát sinh bệnh và miễn dịch của virus PED tương tự như ở bệnh viêm dạ dày ruột.
Hội chứng hoại tử tai ở heo
Vai trò quan trọng của độc tố nấm mốc cần được nhấn mạnh trong một bệnh quan trọng khác
Thay đổi tính cảm nhiễm đối với bệnh truyền nhiễm
Kết luận, độc tố nấm mốc có thể làm thay đổi tính cảm nhiễm của thú đối với các bệnh truyền nhiễm
Nguồn: Heo.com.vn